Cuốn sách TÂY YÊN TỬ
CỦA CHI HỘI VHNT CÁC DTTS VN TỈNH BẮC GIANG
BÌA DO HỌA SĨ QUANG ĐẠI THIẾT KẾ
TÂY YÊN TỬ là tập sách giới thiệu sáng tác VHNT của 12 tác giả trong chi hội VHNT các DTTS VN tỉnh Bắc Giang chúng tôi xin giới thiệu toàn bộ nội dung tác phẩm trên. Đầu tiên là nhà văn Đặng Tiến Huy, chi hội trưởng.
Ký họa Quang Đại |
ĐẶNG TIẾN
HUY
Sinh
ngày:12 - 7 – 1943
Quê quán:
Bắc Giang
Trình độ
chuyên môn: Đại học
Địa chỉ: Số 22 Thánh Thiên, phường Lê Lợi TP,
Bắc Giang.
Vào hội
VHNT các DTTS VIỆT NAM: 2002
TÁC PHẨM CHÍNH:
- Vòng tay ngọt ngào (Thơ - nxb Thanh
niên, 1991)
- Gối sóng (Thơ – nxb Phụ nữ, 1997)
- Thơ tình cuối thế kỷ( Thơ- nxb Văn hóa
dân tộc, 2000)
- Thiên nhãn(Thơ – nxb hội nhà văn, 2002)
- Chủ quán phù vân ( tiểu thuyết – nxb
Thanh niên, 1993)
- Bức tranh lụa (Tập truyện – nxb Thanh
niên 2003
- Văn và đời (Lý luận phê bình VH – Hội
VHNT Bắc Giang, 2006)
GIẢI
THƯỞNG:
-Tặng
thưởng Văn học nghệ thuật của UBTQ Liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật Việt
Nam năm 2003 cho tập truyện ngắn Bức
tranh lụa.
- Giải khuyến khích của Hội VHNTcacs DTTS VN năm 2012
tác phẩm Xa Lý xa mà gần
Hoa ban tím
Truyện ngắn
(Kính tặng bác Dần và nhà giá -, nhà
văn Nguyễn Anh Đào)
Chúng tôi, lần đầu tiên đến thị xã
Sơn La, lạ lẫm, lớ ngớ, đang định tìm người hỏi thăm, thì gặp ông. Ông xởi lởi
hỏi chúng tôi trước:
- Chắc hai ông mới từ xuôi lên?
- Vâng. Chào ông. Xin ông làm ơn chỉ
giùm...
- Tôi biết, tôi biết - Ông nhanh
nhảu cướp lời: - Lại đến Trại sáng tác văn học chứ gì? Hôm qua tôi cũng đưa mấy
ông, mấy bà đến... Trông bộ dạng các ông là biết ngay. Đi theo tôi, nhà tôi
cũng ở gần đấy.
Dọc đường đi, ông nói chuyện rất
vui, tự nhiên như đã quen nhau từ lâu. Ông tự giới thiệu là cán bộ tuyên huấn
đã nghỉ hưu. Là người Hà Nội gốc, lên đây trong đoàn quân Tây Tiến hồi 9 năm.
Rồi cây xanh bén rễ ở đây...
Quanh co ba dãy phố là đến nơi. Ông
chủ động bắt tay thật chặt từng người, mời:
- Nhà tôi ở xế góc phố kia, trước
nhà có giàn hoa giấy đấy. Thu xếp ổn thỏa công việc, mời các ông sang chơi.
Vào một buổi tối, ông mời chúng tôi
bằng được đi nhà hàng cà phê Hoa Ban Đỏ. “Lại có hoa ban đỏ?”. Tôi ngạc nhiên
hỏi. “Chứ sao. Còn có cả hoa ban tím nữa”. Ông trả lời bình thản. Và luôn luôn
có những điều bí mật làm chúng tôi ngạc nhiên. Trước cửa nhà hàng có cây hoa
ban đỏ thật. Cuối mùa xuân hoa chỉ còn lác đác ẩn hiện trong vòm lá xanh. Một
nhà hàng sang trọng, hiện đại có treo nhiều tranh nghệ thuật đẹp. Các bàn kê
cách xa nhau, có góc khuất hợp lý, khách bàn nọ không làm phiền khách bàn kia,
do được ngăn cách bởi những bức tranh nghệ thuật bắt mắt. Khách tha hồ tự do,
thoải mái tâm sự riêng tư. Chủ nhà hàng nếu không phải là kiến trúc sư, họa sĩ,
thì cũng phải có trình độ thẩm mỹ nghệ thuật cao. Mấy cô gái phục vụ trẻ, đẹp
ăn mặc trang phục dân tộc Thái, đi lại nhẹ nhàng, cử chỉ, lời nói, nụ cười niềm
nở, lịch sự, phục vụ chu đáo. Tôi và anh bạn hết ngỡ ngàng này đến ngỡ ngàng
khác. Vừa nhâm nhi tách cà phê nóng, thơm ngon, vừa ngắm tranh, ngắm cách bài
trí và ngắm những cô gái Thái đi lại phục vụ duyên dáng. Ông bỏ đi đâu từ lúc
nào, một lúc sau xuất hiện cùng một người đàn ông dong dỏng cao, đeo kính
trắng, để ria mép, tóc dài chấm vai, đến bàn chúng tôi, ông giới thiệu: “Đây là
ông chủ nhà hàng. Là một họa sĩ, tốt nghiệp trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội. Và
là con trai thứ hai của tôi.”. Chúng tôi đứng lên bắt tay, chào. Anh bạn tôi
niềm nở khen: “Thảo nào, anh bài trí nhà hàng rất nghệ thuật, rất đẹp”. Ông
giới thiệu chúng tôi với con trai một cách trân trọng và thân tình, như đã quen
biết từ lâu: “Hai bác đây là nhà thơ, nhà văn ở xuôi mới lên công tác...”. Chủ
khách tay bắt mặt mừng, ý hợp tâm đầu, đàm đạo văn chương nghệ thuật rôm rả.
Anh con trai nói: “Vợ cháu cũng là
dân văn nghệ, giảng dạy ở trường Trung cấp Văn hóa tỉnh. Cháu làm ở Trung tâm
văn hóa, triển lãm tỉnh. Mục đích mở cửa hàng này là để gặp bạn bè văn nghệ sĩ
chứ kinh doanh thì chỉ là cái cớ... Hai bác còn ở đây lâu, xin mời thường xuyên
đến chơi gặp mặt anh em chúng cháu cho vui. Bố cháu cũng là cây hát và ngâm thơ có hạng đấy ạ.”.
Trên đường về, ông tâm sự thêm: “Tôi
có ba con, hai trai một gái, đều là cán bộ công nhân viên nhà nước. Thằng cả bộ
đội biên phòng, vợ dạy học, người dân tộc Hà Nhì ở xã vùng cao biên giới, đã có
hai con, một học tiểu học, một học mẫu giáo. Thằng hai, các ông vừa gặp, vợ
người dân tộc Thái trắng, mới được một nhóc, quấn ông bà như nhựa. Cháu gái thứ
ba, giáo viên trung học, lấy chồng người dân tộc Lào, dạy cùng trường, mới có
một gái đầu lòng... vị chi, tôi có bốn cháu cả nội lẫn ngoại. Các ông thấy đấy,
gia đình tôi đã là sự tập hợp, đoàn tụ các dân tộc anh em rồi đó”. Rồi ông
cười, tiếng cười giòn giã, vô tư, vui vẻ, thoải mái của người đang được hưởng
hạnh phúc.
Ông ngập ngừng định hỏi thêm điều
gì, lại thôi. Đến chỗ phải chia tay, ông nắm chặt tay hai chúng tôi hồi lâu,
mời ân cần: “Thế nào, hai ông cũng bớt chút thời gian đến chơi nhà chúng tôi
đấy nhá...”. Bị câu chuyện ông lôi cuốn, bỗng nhớ ra, tôi hỏi ông: “Hoa ban
trắng thì rõ rồi, hoa ban đỏ cũng vừa được thấy, ông bảo còn hoa ban tím thật
không ạ?”. “Hoa ban tím hả” - Ông hỏi lại như vậy, rồi khẳng định: “Có hoa ban
tím thật chứ. Nhưng hiếm lắm. Ở nhà tôi có trồng một cây. Mời hai ông đến chiêm
ngưỡng... Mùa này vẫn còn hoa...”.
Đến nhà ông chơi để xem hoa ban tím,
mới vỡ lẽ nhiều điều. Hóa ra ông cũng có một quãng đời chẳng mấy suôn sẻ, đan
xen lắm buồn, vui, có đận tưởng như cổ tích...
Cây hoa ban tím trồng bên cửa sổ sau
nhà, cao khoảng 5 mét, tán khỏa mát cả khoảng sân. Ông xây bồn hình trái tim
quanh gốc cây, ốp gạch men đỏ. Dưới tán lá, bên gốc cây ông kê bộ bàn ghế đá.
Cây được chăm sóc cẩn thận. Trong cửa sổ là phòng ngủ của ông bà. Trên những
cành cao vẫn còn những bông ban tím biêng biếc trong nắng, cánh hoa giống hệt
cánh hoa ban trắng. Tay thoa nhẹ vào gốc cây
tỏ tình cảm yêu mến, trân trọng, ông nói nhỏ nhẹ, ân tình:
- Tôi và nhà tôi thường ra đây ngồi
uống trà, ngắm cây lớn lên từng ngày, ngẫm ngợi chuyện ngày xưa của chúng tôi.
Cây vừa là ân nhân cứu sống tôi, vừa là bà mối xe tơ kết tóc cho vợ chồng tôi.
Lại một bất ngờ nữa. Tôi và anh bạn
im lặng trân trọng trước sự xúc động của ông về kỷ niệm thiêng liêng. Mặt ông
bần thần, mắt dõi về dãy núi trùng điệp uốn lượn như con rồng ngụp lặn trong
biển sương mù. Hồi ức của ông được giãi bày cho điều ông vừa nói được sống lại
như mới hôm qua... Ông kể bằng giọng trầm, ấm, khoan thai:
.... Những năm 1953 - 1954, thực dân
Pháp muốn chiếm Điện Biên Phủ xây dựng trọng điểm căn cứ chiến lược, hòng thu
hút lực lượng chủ lực ta để dễ bề tiêu diệt. Chúng nống càn khắp các vùng xung
quanh hết sức tàn bạo: đốt sạch, cướp sạch, giết sạch... Những bản làng các dân
tộc bà con đang sống yên lành bỗng dưng bị tàn phá dã man. Đau thương, tang tóc
bao trùm ngày đêm. Thanh niên trai tráng bị bắt đi phu, đi lính. Người già, phụ
nữ, trẻ em còn sống sót bị lùa vào ở tập trung để hành hạ, đánh đập, cưỡng
hiếp. Ai chạy thoát thân phải sống chui lủi trong rừng sâu, thiếu thốn khổ cực
trăm bề.
Tôi vừa bước sang tuổi 17, là bộ đội
Cụ Hồ, trong đoàn quân Tây Tiến được phái đến chống càn, bảo vệ dân, bảo vệ bản
làng. Đơn vị chia nhau vào rừng tìm dân về xây dựng bản làng mới, cuộc sống mới
vừa sản xuất, vừa đánh giặc. Trong một cuộc chống càn ác liệt, tôi bị thương,
lạc đơn vị, cố bò lết vào rừng sâu, rồi ngất lịm. Tỉnh dậy, thấy mình nằm trên
đống lá khô trong hang đá. Một người đàn bà dân tộc Thái và một bé gái ngồi
cạnh mừng rỡ khi thấy tôi tỉnh dậy. Họ nói với nhau bằng tiếng dân tộc, tôi
hiểu lõm bõm. Thấy nét mặt mẹ con họ vui, cử chỉ thân thiện, tôi hiểu họ là
người tốt, đã cứu tôi thoát khỏi thần chết, đưa về đây chăm sóc. Ngày một ngày
hai, với sức trẻ 17 bẻ gãy sừng trâu, vết thương chóng lành, sức khỏe hồi phục
nhanh. Tất cả do sự chăm sóc tận tình của mẹ con người dân tộc. Người mẹ biết
nhiều cây thuốc quý, ngày ngày vào rừng sâu tìm hái cây thuốc về điều trị cho
tôi. Đứa bé quanh quẩn ở nhà cơm nước, giặt giũ trông nom tôi rất tận tình chu
đáo.
Ngoài thuốc rửa, đắp vết thương bằng
vỏ và lá cây thuốc trong rừng, họ còn bồi bổ cho tôi loại rau nấu canh ăn vừa
ngọt vừa chóng lại sức. Tôi hỏi canh rau gì mà ngon thế, bé gái nói: “Người già
bảo rau tình rau nghĩa đó”. Năm ấy bé gái khoảng 10, 12 tuổi, chưa biết chữ, nói
tiếng Kinh cũng chưa thạo. Tôi bảo bé phải học cái chữ Bác Hồ thôi. Cái chữ dạy
người ta biết đọc báo, biết điều hay lẽ phải, biết chép bài hát hay. Tôi sẽ dạy
bé học, dễ thôi.
Người mẹ suốt ngày hết vào rừng tìm
kiếm đào củ mài, hái măng rừng về làm bữa, lại xuống suối mò cua bắt ốc, bắt cá
về bồi bổ cho tôi chóng khỏe. Bé gái rất sáng dạ, lại ham học cái chữ, nên tôi
dạy đến đâu em biết nhanh đến đấy. Tình cảm giữa tôi và mẹ con bé gái ấy càng
thân thiết, gắn bó. Lúc ấy người mẹ mới cho tôi biết tên bé gái là Cầm Ban, cha
nó bị Tây bắt về đồn làm phu, làm lính chẳng biết sống chết thế nào. Gia đình ở
Mường La, bị Tây đột ngột càn quét, tàn phá giết chóc cả bản, chỉ còn ít người
may mắn chạy thoát vào rừng như mẹ con bà.
Một hôm bé Cầm Ban dẫn tôi đến một cái
cây nói: “Đây là cây tình cây nghĩa. Mé lấy lá và chồi non nấu canh cho anh ăn
đấy. Người già bảo cây này chữa được nhiều bệnh tật. Về mùa xuân cây ra hoa màu
tím”... Có tối, người mẹ kể cho tôi nghe sự tích về cây hoa ban. Nó đẹp và
trinh bạch như các sơn nữ Thái. Xưa có đôi trai gái yêu nhau. Thề thốt chung
thủy. Người con trai nhà nghèo, không đủ tiền xin cưới nàng. Phải tạm biệt
người yêu đi xa làm ăn. Khi nào đủ tiền lấy vợ mới trở về. Khi chàng trai kiếm
đủ tiền trở về, nàng đã chết trong rừng vì buồn tủi chờ đợi mỏi mòn. Nàng để
lại những vết chân in hằn trên đất rừng. Chàng vô cùng đau khổ, khóc than thảm
thiết. Mỗi giọt nước mắt của chàng nhỏ xuống từng dấu chân nàng, về sau mỗi
bước chân nàng mọc lên những cây hoa có màu trắng, màu đỏ, màu tím, mùi thơm vị
ngọt. Và đặt tên là cây Hoa Ban.
Hôm tôi khỏe mạnh, xin phép hai mẹ
con trở về đơn vị, tiếp tục hành quân đi đánh Tây. Bé Cầm Ban tiễn tôi đến gốc
cây ban, có hoa màu tím, dừng lại bịn rịn, khóc thút thít. Tôi bảo: “Ban phải
tiếp tục đi học giỏi biết nhiều cái chữ để chép và học bài hát và viết thư cho
anh nữa”.
Bé Cầm Ban gật đầu nói, mà mắt cứ
giàn giụa nước:
“Bao giờ đánh đuổi hết Tây, anh phải
về với mẹ con em. Em sẽ đứng ở gốc cây ban tím này chờ đợi...”.
Tôi lấy trong túi ngực quyển sổ nhỏ
chép nhiều bài hát tặng Cầm Ban và hứa: “Nếu còn sống, anh sẽ trở về”.
Rồi chúng tôi chia tay nhau.
Tôi đi chiến đấu hết chiến dịch Đông
Xuân 1953 - 1954, đến chiến dịch giải phóng Điện Biên Phủ, một thời gian sau đó
mới được phép quay về tìm mẹ con Ban. Cây ban tím bị đạn giặc cháy rụi. Mẹ con
Ban chẳng thấy đâu. Còn hay mất? Tôi tìm về Mường La cũng không dò hỏi được,
đành lủi thủi về đơn vị.
Một thời gian sau, trước khi theo
đơn vị về xuôi. Tôi quay lại Mường La và hang đá tìm mấy lần nữa đều bặt vô âm
tín.
Về xuôi được mấy năm, do sức yếu tôi
được giải ngũ về Hà Nội, tiếp tục đi học, học xong ra trường công tác, rồi xây
dựng gia đình. Trong lòng không nguôi thương nhớ, tôi thường kể với vợ con về
ân nhân của mình, không biết sống chết ra sao, giờ đây ở đâu? Và mong có ngày
sẽ đưa vợ con lên đó dò tìm tung tích...
Chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ập
đến. Gia đình sẻ làm đôi, tôi theo cơ quan sơ tán một nơi. Vợ và các con sơ tán
một nơi. Một hôm trên đường công tác, vợ tôi bị bom Mỹ sát hại, tôi trở thành
gà trống nuôi con...
Khi chiến tranh kết thúc, đất nước
hòa bình, thống nhất hai miền Nam Bắc, tình cờ tôi và Cầm Ban gặp lại nhau. Lúc
này tôi đã xấp xỉ tuổi 50, Cầm Ban ngoài 30. Lần này chị được cử về học trường
Chính trị cao cấp Nguyễn Ái Quốc. Nhân chuyến đi thực tế cơ sở, chị mừng mừng
tủi tủi kể với tôi:
- “Anh đi chiến đấu được một thời
gian, Tây bắn phá làm cháy cây ban tím. Mẹ cũng bị đạn chết hôm đó. Chôn cất
cho mẹ xong, em tìm về Mường La, mong gặp lại bố, bà con bảo bố cũng bị Tây
giết. Nhớ lời anh, em quyết tâm học bằng được cái chữ, mới mong có ngày tìm gặp
lại anh. Bà con họ hàng gửi em về trường dân tộc nội trú tỉnh. Em thầm hứa sẽ
học thật giỏi, được về Hà Nội học sẽ có dịp tìm anh. Những năm học Đại học Tài
chính, em đi tìm anh suốt mà nào có thấy. Tốt nghiệp ra trường, em về tỉnh nhà
công tác. Nhiều chàng trai muốn xin cưới em làm vợ, nhưng em không thể nhận
lời. Tuy chưa một lời hẹn hò chờ đợi anh, nhưng luôn nhớ tin anh, tin một ngày
gặp lại. Và em đã “tằng cẩu”, coi như gái đã có chồng để chờ đợi anh. Bởi đã từ
lâu, em đã nguyện làm vợ anh rồi. Anh còn nhớ câu chuyện hoa ban quê em chứ? Dù
sau này gặp lại anh, biết anh đã có gia đình, em cũng không ân hận, ở vậy suốt
đời”.
Gặp lại tôi, biết hoàn cảnh tôi gà
trống nuôi con Cầm Ban rất thương. Nhất là ba đứa trẻ. Thế là chị chủ động về
tỉnh trình bày với lãnh đạo chuyện của mình, xin cho tôi chuyển công tác lên
đây. Rồi chúng tôi tổ chức lễ cưới. Chúng tôi không có con chung. Chị coi con
tôi như con mình, hết mực yêu thương, dạy dỗ chúng. Bọn trẻ cũng yêu quý chị
như mẹ đẻ. Gia đình hòa thuận, các con trưởng thành. Rất ít người biết hoàn
cảnh gia đình chúng tôi. Ai cũng đinh ninh những đứa trẻ là con chung hai
người.
*
*
*
Bỗng trên vòm cây có tiếng chim hót.
Chúng tôi đều ngước mắt dõi tìm tiếng chim, bắt gặp những bông hoa ban tím cuối
mùa lung linh trong nắng ấm. Tiếng chim bặt đột ngột, như nhường cho tiếng hát
của ông vừa cất lên da diết, đằm thắm: “Đây Mường La quê hương em đang điêu
đứng trong tay giặc Phú Tầy chiếm đóng Mường La. Phú Tầy ác lắm noọng ơi. Nó đốt
bản, nó dồn dân, bao ruộng đồng bỏ hoang. Cha em phải đi phu, nó đánh chết vứt
xác bên khe. Mẹ em không chịu nhục lẩn lút sống trong rừng. Một dạ nuôi em, đói
rét lầm than.
“Bộ đội đã về đây, vâng theo lệnh Cụ
Hồ tiến vào Tây Bắc. Diệt lũ giặc giải phóng Mường La. Mường La chiến thắng. Ánh nắng
bừng lên trên khắp đồi nương, lúa chín vàng đang reo mừng...”.
Tiếng hát ngân vang, ngân cao như
làm những bông hoa ban tím cuối mùa lung liêng say trong nắng mật ong.
Ông ngừng hát rồi bảo:
Hồi chưa gặp được nhà tôi, tình cờ
đọc được bài hát: “Em bé Mường La” của nhạc sĩ Trần Ngọc Xương trong một tờ báo
thế là nhập tâm ngay, đồng cảm ngay, học rất chóng thuộc. Tôi thường hát một
mình lúc buồn, cả khi vui, là nhớ đến Mường La, đến em... Hát lên lòng khuây
khỏa...
Còn cây hoa ban tím đây. Một dịp về
thăm chốn cũ, ở gần gốc cây ban tím năm nào, có một cây ban con, chúng tôi mừng
quá, hì hụi đánh đem về trồng, nâng niu, chăm sóc chu đáo cho đến bây giờ, cây
đã cao, to, có tuổi gần bằng tuổi cháu út con tôi rồi đấy.
Nhìn cây ban tím, chúng tôi bỗng nhớ
đến bà Cầm Ban, muốn được gặp bà. Chúng tôi hỏi ông:
- Bà nhà đi đâu mà mãi chưa thấy về
hả ông?
- Bà ấy đi họp CLB hưu - ông trả lời
- chắc lại say sưa tập văn nghệ. Bà ấy nhà tôi mê văn nghệ từ bé, đang chuẩn bị
tiết mục đi hội diễn mừng ngày kỷ niệm
người cao tuổi mà.
- Chà chà... Nhà có hai ca sĩ, ông
không tham gia à? - Anh bạn tôi nhanh nhảu hỏi.
- Có, tôi ở CLB cựu chiến binh.
Rất tiếc chưa gặp được bà, nhưng
được ngắm cây ban tím và những bông hoa cuối mùa mà thấy thiêng liêng, trân
trọng, mãn nguyện lắm rồi.
Tam
Đảo, 11-2008
Thiên tinh
Truyện ngắn
Dễ chừng, hai ba mươi năm nay bạn bè
cùng xóm Sỏi nơi khỉ ho cò gáy, miệt đồi Trung du ít ai nhắc nhớ về hắn. Hắn ở
gần nhà tôi. Hai thằng chơi với nhau cũng khá thân, tối lửa tắt đèn có nhau,
ngầm “ganh đua” học hành và có chung một sở thích, chí hướng là: đọc sách, quyết
tâm học đến cùng. Lại cũng có với nhau những kỷ niệm để đời là mê đi soi ếch
ban đêm và sau những trận mưa rào đầu hè đi vồ cá rô rạch ngược hay đi úp cá
đồng đẻ. Phần nhiều bạn bè trang lứa trong xóm, gái thì hết lớp bốn đã bỏ học ở
nhà làm ruộng, tấp tẩng lấy chồng, sinh con đẻ cái. Có đứa ngoài bốn mươi, cháu
nội cháu ngoại đã rồng rắn chật sân. Trai thì cố lấy cái bằng lớp bảy. Ở nhà
cũng có vai vế, chỗ ngồi cao trong chiếu hợp tác xã, góc chiếu ngoài đình, hay
góc chiếu trong chính quyền thôn, xã. Ngày ấy văn hoá hết lớp bảy là ghê lắm
rồi. Chữ nghĩa nhất vùng Trung du này. Hãnh diện ra phết. Đi đến đâu con gái bu
như ruồi, bám như đỉa. Tha hồ kén chọn vợ.
Tôi với hắn không màng tắt ngang tắt
ngửa. Nhà kinh tế neo đơn cũng động viên nhau cố mà vượt qua. Thế là hai thằng
cứ vụt tiến hết cấp ba. Tôi thi vào đại học. Hắn tỏ ra nhụt chí, chùn lại và lí
sự cùn: “Đời người ta có ba bảy đường tiến, thôi mày tiến được cứ tiến. Tao
mừng. Tạm dừng, rẽ ngang rồi tao sẽ tiến theo mày sau. Hoàn cảnh nhà tao mày thấy
đấy…”. Ngày tôi thi đỗ vào đại học, nhập trường, thì hắn cũng nhận quyết định
bổ nhiệm làm thầy giáo cấp hai, đi bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm ba tháng.
Hai năm sau, tôi tốt nghiệp đại học
ra trường công tác. Ngày ấy, chỉ một vài trường đại học đào tạo ba, bốn năm. Sư
phạm chỉ hai năm. Sau khóa tôi học ba, bốn khoá mới nâng lên đào tạo ba hoặc
bốn năm. Bộ Giáo dục phân công tôi lên miền núi theo tinh thần xung phong tình
nguyện. Chiến tranh hai miền Nam Bắc càng ngày càng ác liệt. Hôm gặp nhau chia
tay, hắn nói như tâm sự: “Thế là, tao đã có thâm niên hai năm. Mày lính mới tò
te vào nghề. Cùng gõ đầu trẻ. Lên miền núi chắc cũng rất cực. Nhưng may, có thể
tránh được hòn tên mũi đạn. Tao lương ba cọc ba đồng dè xẻn cũng giúp được thầy
bu tao chữa khỏi bệnh tật. Gia cảnh đỡ khốn khó hơn. Cuối năm có lẽ tao phải
lấy vợ. Nhà neo đơn. Các cụ đã già, giục dã ghê lắm”. Bỗng hắn cười phá lên
sòng sọc như rít thuốc lào, mà rằng: “Đời, kể cũng nực cười. Tưởng mày leo cao,
hoá ra cũng chả hơn gì tao. Gì thì gì, mày cũng chỉ 10 + 2, còn tao những… 10 +
3 cơ mà…” …Đến bây giờ đã mấy chục năm rồi mà trong tôi vẫn âm vang cái giọng
nói tưng tửng, điệu cười khê nồng của hắn. Và nét mặt gân guốc, góc cạnh, cái
miệng méo xệch chẳng ra tươi, chẳng ra héo, tếu táo kia nữa.
Những ngày tháng đầu mới xa, hai
chúng tôi còn hăng hái thư từ cho nhau. Rồi thưa dần. Bẵng đi. Lá thư cuối cùng
hắn gửi cho tôi vỏn vẹn mấy chục dòng. Chữ nghĩa xiêu vẹo, xệch xoạc, dòng lên
dòng xuống: “… Thầy bu tao mất rồi! Về với các cụ tổ tiên rồi! Hôm mới đây,
chúng thả bom vào trường học giết hại nhiều thầy và trò vô tội thảm lắm. Vợ con
tao cũng bị trận ấy. Đau xót quá mày ơi!… Nếu không ra trận tao không chịu nổi
đâu. Chào mày. Thằng bạn bất hạnh xóm Đồi Sỏi của mày”. Thế là hắn lặn tăm từ
đấy – tháng 10 năm 1970.
Thỉnh thoảng tôi có về quê - xóm
Sỏi, nhưng hắn vẫn mất dạng. Cô em út ở trông coi cơ ngơi nhà cửa vườn tược bố
mẹ để lại, chờ hắn về. Vợ chồng cô đều là giáo viên tiểu học trường xã, đã có
hai con, một trai một gái đầu lòng. Cô đon đả bảo: “Anh em vẫn còn sống. Ở miết
mãi Tây Nguyên xa lắm. Chẳng thư từ gì, chỉ nhắn tin ra sẽ về thăm nhà nay mai.
Thế mà đã mươi năm có lẻ, nào đã thấy mặt. Anh em chúng em mong lắm.”. Biết tin
hắn vẫn còn, không chóng thì chầy sẽ có ngày gặp nhau thôi. Công việc, thời
gian cuốn đi đến mấy năm sau, nhân dịp đi dự trại sáng tác ở Đà Lạt, hôm giao
lưu với Hội nhà văn, nhà báo trong ấy, tình cờ gặp hắn đến dự. Người ngợm cao
lêu đêu, da thịt săn chắc màu đồng điếu. Nếu không có đôi mắt và khoé miệng
cười cười, khuôn mặt gân guốc, góc cạnh, cái mũi quạ khoằm vẫn như xưa thì tôi
không nhận ra hắn. Giờ giải lao, hắn đến thụi vào mạng sườn tôi đau điếng,
miệng hỉ hả: “Tao biết tỏng mày vào đây mấy hôm rồi, nên phục ở nhà chờ. Chứ
không, tao đã tung hoành sông nước đồng bằng lục tỉnh Nam Bộ rồi. Tao
với mày quả có duyên, hết gõ đầu trẻ, chuyển sang văn chương. Tao đọc mày
nhiều. Khá lắm. Lại làm lãnh đạo Hội nữa, oách thật”. Tôi chưa kịp hỏi hắn điều
gì, điện thoại di động trong túi hắn nổi nhạc, hắn xin phép nghe, rồi quay lại
bắt tay tôi, khẩn khoản: “Xin lỗi, Tao phải đi ngay có việc cần. Tối gặp lại
nhau nhé.”. Hắn bóp mạnh tay tôi, vội vã biến. Để mặc tôi trơ khấc. Tôi chỉ
biết lắc đầu, thầm trách: “Mày tệ thật… đã lâu mới gặp mà…”.
Đêm ấy hai thằng hàn huyên. Hắn dốc
bầu tâm sự: “Sau biến cố dồn dập những tưởng không trụ vững nổi, tao vụt đứng
lên rũ sạch, ra trận, mang trong lòng thù hận quyết chiến đấu trả thù. Xông pha
chiến đấu hết chiến trường Tây Nguyên, miền Trung, đến các mặt trận ác liệt cực
Nam cho đến chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng 30 tháng 4 năm 1975, cũng lạ tao
không hề dính đạn, chỉ vài lần sốt rét, mấy lần bom vùi. Chẳng hề hấn gì. Lắm
lúc tao nghĩ hay là do bố mẹ vợ con tao phù hộ, che chở. Rồi lại liên miên mấy
năm chiến tranh biên giới Tây Nam
cũng chẳng dính hòn tên mũi đạn nào. Yên ổn mới xin đi học đại học Tổng hợp văn
Sài Gòn. Tốt nghiệp, chuyển sang làm báo, viết văn. Đời, kể cũng lạ, mày thấy
không?”. Tôi hỏi: “Mày quên lũ chúng tao với cái xóm khỉ ho cò gáy, đá sỏi
trung du hay sao mà biệt tăm, mất dạng thế?”. Hắn bùi ngùi: “Ai quên được quê
hương và những thằng bạn nối khố hở mày. Nhất là mày. Nhưng về đấy lại gợi lại
nỗi đau xưa, tao sợ không chịu nổi. Sẽ có ngày tao phải về.”. “Thế, đã làm
lại,… gia cảnh mày trong này ra sao?” Tôi cầm chừng thăm dò hỏi hắn. Vẫn cái
giọng tưng tửng, vẻ tỉnh bơ: “Đã thế, tao không giấu gì mày. Vẫn phòng không,
đơn chiếc. Có nhiều em thương tao lắm, nhưng tao không thể. Người ngợm tao, mày
trông biết đấy. Tuy không dính hòn tên mũi đạn, nhưng dính điôxin, cái chất độc
da cam quái quỷ ấy. Hoà bình đã bao nhiêu năm rồi, nhưng trong máu tim tao, lục
phủ ngũ tạng tao, trong nghị lực và ý chí tao từng ngày từng giờ vẫn chiến
tranh liên miên giành giật lấy sự sống. Mày bảo lấy vợ, nỗi bất hạnh không
những không đem lại hạnh phúc cho người ta, mà còn đem đến nỗi đau kinh hoàng
nữa… tao không nhẫn tâm. Thằng giặc nó thâm độc tàn ác thế đấy, muốn huỷ diệt
chúng ta đến mấy đời sau…”. Tôi bùi ngùi, cũng chỉ kể sơ qua về tôi, sợ hắn
buồn. Nhưng tôi cảm thấy hắn rất hiểu tôi, nên cũng chả hỏi han căn vặn gì
thêm. Đêm Đà Lạt se lạnh. Gió rít rừng thông vật vã, trăn trở, sôi réo trong
lòng. Tôi chợt nhớ câu thơ của Nguyễn Công Trứ… “Làm cây thông đứng giữa trời
mà reo…”. Bỗng hương hoa ngào ngạt tràn ngập căn phòng. Hương thơm lạ lắm, như
được tổng hợp của bao nhiêu loại hoa ở xứ sở này. Mỗi tinh hương ấy thẩm thấu
vào từng nơron thần kinh, từng tế bào ta, khơi gợi trong ta những màu sắc lung
linh rực rỡ, nẩy sinh trong ta những khát vọng, cảm xúc đặc biệt. Và chúng tôi
im lặng để tận hưởng những hương hoa tinh khiết kia. Cho được khoả lấp đi những
nỗi nhọc nhằn, đau thương, vui buồn trong chặng đường đã qua mỗi thằng nếm
trải. Cứ thế cho đến tảng sáng. Hắn bật dậy ra về. Trước khi đi, lấy trong túi
xách mấy cuốn sách của hắn mới xuất bản, để trên bàn tặng tôi.
Thiên Tinh? Hoá ra bút danh của hắn.
Tôi đã từng đọc nhiều thiên bút ký sắc sảo, xông xáo và độc đáo của Thiên Tinh.
Những truyện ngắn Thiên Tinh viết giàu chất nhân văn, phản ánh đa dạng cuộc
sống và với một lối viết rất riêng, tôi thầm thán phục đã lâu. Có những trang
viết ám ảnh tôi, đưa tôi về với những kỷ niệm thiêng liêng thuở chăn trâu, đi
học nơi vùng quê xóm núi khỉ ho cò gáy. Những gương mặt bàn bè hiện về rõ mồn
một. Dảng vẻ, tính cách, lời ăn tiếng nói, nụ cười, ánh mắt mỗi đứa dội về sôi
động trong ký ức tôi. Đặc biệt hình ảnh hắn lồng lộng lắm lúc choán hết những
đứa khác. Sao hắn lại đặt bút danh là Thiên Tinh? Nghĩa là sao đây? Chắc chắn
gắn với một kỷ niệm gì? Hoặc ngầm ý nung nấu một ý tưởng gì? Phải bắt hắn giải
mã thôi.
Mười lăm ngày trôi qua nhanh. Hôm
tổng kết trại sáng tác hắn cũng không về được. Điện cho tôi: “Tao nhớ, nhưng
không về được. Hiện đang ở Phú Quốc, hòn đảo đẹp mê hồn. Thôi chia tay, chúc
mày thành đạt. Hẹn gặp nhau trên báo chí, tâm tình bằng tác phẩm văn chương
vậy. Chờ đọc bài ký viết về hòn đảo ngọc của tao”. Thế là, hắn sống ở đâu, nhà
cửa to, nhỏ, ngang dọc thế nào đành vẫn mù tịt. Hoá ra cuộc đời hắn lại bí hiểm
mịt mờ mãi sao? Phải chăng Thiên Tinh là vậy? Tôi vẫn thường xuyên được đọc truyện
ngắn và ký của hắn ở báo Văn nghệ, Văn nghệ Quân đội, Tiền phong… Hắn viết càng
ngày càng hay. Nhưng trong mỗi tác phẩm đều ẩn chứa sâu thẳm một nỗi niềm rất
lạ, rất khó phân tích rạch ròi. Hắn vẫn viết đều, vẫn xông xáo, ngòi bút vẫn
như lưỡi dao sắc, lạnh lùng lách vào từng ngóc ngách, hiện thực cuộc sống mà
phanh phui, giãi bày. Có một nhà phê bình văn học đã viết về hắn: “Văn chương
Thiên Tinh vừa rất lạnh, lại rất nóng. Vừa thăm thẳm buồn, lại chót vót vui.
Vừa tỉnh táo đến dễ sợ, lại mơ hồ, mờ ảo, hư vô… Tương hai thái cực đối chọi
nhau như nước với lửa, như thực và mơ, những nhuyễn lại thành một phong cách
độc đáo Thiên Tinh…!…”.
Hai năm sau, tôi lại có dịp vào Đà
Lạt, hỏi anh bạn văn về hắn, anh lắc đầu quầy quậy: “Trời, anh hai sống kỳ quá
ta. Thoắt hiện, thoát biến. Ảnh sống độc thân. Có cái gì cũng cho bạn, cho
người thất cơ lỡ vận. Chả giữ cho mình cái gì. Ảnh biến mất dễ chừng hơn một
năm nay. Sau vụ tai tiếng chẳng rõ thực hư thế nào?”. “Tai tiếng? Hắn bị tai
tiếng? Tai tiếng gì cơ chứ? Tôi biết, đời hắn chỉ có văn chương chứ có gì nữa
đâu mà so đo vun vén để thành tai tiếng?”. Anh bạn văn kể tiếp: “Nghe đâu ảnh
hành nghề tướng số, bói toán gì đó, lại cả chữa bệnh bằng nhân điện. Mọi người
bảo, trong người ảnh có dòng điện lạ, chỉ cần dùng tay “luân xa” vào chỗ đau là
bệnh khỏi liền. Nhiều người tin kéo đến nhà ảnh chữa bệnh, xem bói đông như
hội. Rồi cũng từ đấy phao tin “Ảnh lợi dụng hành nghề quấy rối tình dục các cô
gái trẻ, các bà nạ dòng”. Ảnh sống độc thân mà. Rồi, đơn kiện gửi tùm lum về
thường trực Hội Văn nghệ. Cả cá nhân, tập thể bị ảnh biết bài phanh phui tiêu
cực, tham nhũng cũng xấp vô như thể được dịp bu vào đánh hội: Thực hư chưa ngã
ngũ ra sao, ảnh đã biến mất từ bao giờ…”.
Tôi biết tính hắn từ bé. Hắn lại vào
sinh ra tử suốt cuộc chiến tranh. Nhân cách một người cầm bút xông xáo, tài
năng là thế, làm gì bỗng dưng lại đổ đốn như thế được. Tôi tin hắn. Chẳng qua
đây chỉ là tai nạn nghề nghiệp, rắp ranh của kẻ đớn hèn nào trù dập, hãm hại
hắn mà thôi. Chắc là nhân việc này hắn về quê. Sau đợt công tác, tôi về quê tìm
hắn sẽ rõ cả thôi.
Về quê, tôi xộc vào nhà hắn ngay.
Chỉ có cô em gái út hắn ra đón, mời vào nhà, nửa khóc nửa mếu, kể:
“Đùng một cái, anh em lù lù về nhà.
Không thư từ nhắn nhe trước. Cả nhà. Cả họ hàng, bà con làng xóm mừng. Những
ngày anh ở nhà lúc nào cũng khách khứa đầy nhà. Bạn bè thời các anh hay tin kéo
về chơi đông vui lắm. Anh em và mọi người nhắc đến anh luôn. Vợ chồng em đã xác
định, trù liệu từ lâu. Hương hoả nhà em đây là thầy bu em để lại cho anh. Anh
là con trưởng phải có trách nhiệm thờ cúng tổ tiên, ông bà cha mẹ. Anh đi vắng,
chúng em trông nom hộ anh. Chúng em đã tằn tiện chi tiêu, tiết kiệm mua được
mảnh đất, anh về là chúng em làm nhà ra ở riêng. Em có cô bạn dạy cùng trường
xinh xắn, nết na sẽ làm mối cho anh. Vợ chồng bàn đi tính lại những dự định về
tương lai cho anh; chưa kịp nói với anh, anh đã chủ động gọi chúng em vào nói
trước: “Anh biết hai em bao năm vất vả vì anh, làm tốt phận sự người con hiếu
thảo. Thờ cúng tổ tiên, chăm sóc mộ phần thầy ba chu đáo. Anh là thằng bất
hiếu, đứa bỏ đi. Các em tha thứ cho anh. Trước ban thờ tổ tiên và mộ thầy bu
anh đã chịu lỗi và xin tha thứ rồi. Anh không thể ở nhà được. Còn một nhiệm vụ
hệ trọng của thằng bạn cốt tử cùng đơn vị trước lúc hy sinh nó trao cho anh,
anh đã nhận lời. Anh cứ lần lữa bao năm nay, vin vào cớ này cớ nọ mà lòng không
yên. Nó cứ luôn luôn về giục dã. Anh không thể phản bội lời hứa. Quỹ thời gian
của anh chả còn là bao. Anh phải gắng sức gấp thực hiện thôi. Anh xin hai em
hãy giúp anh, thay anh nhận lấy phần hương hoả này.”. Anh em lại ra đi từ đấy
đến nay”. Dễ chừng đã mấy năm chẳng biết số hắn là sao mà lận đận vậy. Hắn là
người luôn giữ chữ tín với bạn bè, hiếu thảo với cha mẹ. Hẳn việc này phải hệ
trọng lắm mới dám bỏ quê hương mà đi. Tôi phải thu xếp thời gian đi tìm hắn xem
sao. Hắn bảo quỹ thời gian chả còn là bao, nghĩa là sức khoẻ hắn xấu lắm rồi.
Không biết dạo này hắn có còn viết lách gì nữa không, lâu chả thấy bài đăng ở
báo nào. Giữa lúc nghĩ về hắn như vậy, tôi nhận được điện của em gái hắn: “Anh
em ốm nặng. Anh có thu xếp được, mai cùng chúng em đi thăm anh ấy.”. Tôi bàng
hoàng cả người, linh tính báo điềm gở, vội bàn giao công việc, báo với gia
đình, về quê gấp. Xe cơ quan tôi chỉ chở thêm được bốn người: ông chú, bà cô
ruột hắn và vợ chồng cô em gái. Lặn lội mấy trăm cây số, xe chạy suốt từ sáu
giờ sáng đến năm giờ chiều mới đến nơi. Thì ra hắn ở bản người Thái cách thị xã
Sơn La hơn hai mươi cây số. Một căn nhà sàn khang trang, xung quanh là vườn cây
ăn quả đến mấy hécta. Người ra cổng đón chúng tôi là người đàn bà Thái, tuổi
khoảng trên bốn mươi. Khuôn mặt buồn, mắt đỏ hoe rớm lệ, lộ rõ sự lo lắng, mất
ngủ do thức đêm nhiều. Chắc chị chưa biết xưng hô thế nào cho phải, lúng túng
mãi mới nói được mấy câu: “Xin mời mọi người lên nhà. Anh ấy yếu lắm rồi ạ”.
Chúng tôi vội đến bên giường hắn. Bà cô và cô em gái khóc nức nở. Ông chú và
tôi gọi hoài tên hắn. Hắn vẫn nằm bất động thiêm thiếp. Khuôn mặt gầy guộc chỉ
còn da bọc xương. Suốt đêm ấy, chúng tôi túc trực bên giường hắn. Hắn tỉnh lại
ba lần. Lần nào mắt cũng mở chừng chừng nhìn khắp lượt mọi người, sắc mặt rạng
rỡ hân hoan. Về sáng hắn tắt thở. Hắn đi vào đúng giờ Dần. Theo di chúc của
hắn, để hắn nằm lại đất này, ba năm sau hãy đem về quê. Gia đình nội, ngoại, bà
con thôn bản làm ma cho hắn theo phong tục ở đây rất chu đáo. Chứng tỏ hắn rất
có uy tín và được bà con quý trọng thương yêu.
Chúng tôi lưu lại mấy ngày để dự
cúng tuần đầu cho hắn, mới dần vỡ lẽ ra vì sao hắn phải đến đây và những ngày
sống ở đây như thế nào. Vợ hắn vào buồng khuân ra một cái hộp bìa các tông khá
to và nặng, dán niêm phong, có đề người nhận là tôi. Để trước mặt tôi, chị nói:
“Anh ấy cứ ước ao được gặp anh. Và dặn đi dặn lại bằng cách nào em cũng phải
gửi đến tận tay anh cái hộp này. Anh bảo cóp nhặt cả đời mới có được ngần ấy.
Cả cái đã in và cái chưa in được. Về nhà, anh hãy mở ra”. Chị quay sang vợ
chồng cô em gái, nói nhỏ nhẹ, khẩn khoản: “Anh dặn chị đưa cho cô chú cái phong
bì này. Trong ấy là tiền góp cùng cô chú sửa sang phần mộ cho ông, bà, bố mẹ và
căn nhà thờ tổ tiên. Các em phải nhận không anh buồn, không siêu thoát được
đâu.”. Cuộc bàn giao này có hai con chị. Đứa con gái lớn đang học Cao đẳng Sư
phạm tỉnh năm thứ nhất. Cậu con trai đang học Trung học phổ thông. Đầu chúng
chít khăn tang, khuôn mặt dầu dĩ. Hôm đưa đám chúng khóc rất thảm. Đứa chị xin
phép mẹ nói: “Thưa ông, bà, bác, cô chú. Bố cháu đúng là chọn được bạn tốt. Dượng
yêu quý chúng cháu như con đẻ. Chúng cháu coi chú dượng như cha đẻ của mình.
Không thì làm sao mẹ con cháu được như ngày nay. Ở suối vàng chắc là bố cháu
vui lắm”. Ông bà ngoại, bà nội hai cháu cũng có mặt. Ông nội nói: “Ai dà, cái
ngày nhận được thư thằng con trước ngày nó hy sinh bảo có bạn tốt. Nhận nhau là
anh em cùng chiến đấu một đơn vị, đứa nào còn sống sẽ về chăm sóc cả hai bên
gia đình. Nhận được giấy báo tử thằng con. Chờ mãi thằng bạn nó mới trở về.
Mừng lắm. Nó sống hiếu thảo, tử tế lắm, dân bản ai cũng quý. Mới đầu nó chỉ
nhận làm con nuôi thôi. Hai nhà khuyên mãi nó mới chịu lấy con vợ này đấy. Nó
lắm sáng kiến, chăm chỉ làm ăn mới nuôi được con ăn học, có được cơ ngơi đây.
Dân bản theo mãi còn mệt xác đây. Nó còn bầy cho dân bản làm giàu nữa vớ…”.
Về đến nhà, tôi mở hộp giấy trước
ông chú, bà cô và vợ chồng cô em gái. Trong hộp có mươi quyển sách của hắn đã
xuất bản, tôi đã được tặng. Mấy tập bản thảo và một phong thư. Tôi đọc thư cho
cả nhà nghe:
“… Thế là tao về thế giới cát bụi
trước mày. Chắc mày có nghe những chuyện tào lao của tao ở Đà Lạt. Chẳng có gì
đâu. Hãy tin tao. Cuộc đời tao tuy ngắn ngủi, chẳng suôn sẻ lắm, nhưng tự hào
đã sống những ngày đáng sống, không hổ thẹn bởi đã sống hoài, sống phí như
Paven cảnh tỉnh. Những thứ tao để lại cho mày, tuỳ mày định liệu. Thôi, vĩnh
biệt mày, thằng bạn tâm đầu ý hợp xóm Sỏi nghèo”.
Đọc xong thư, mọi người đều khóc.
Tôi lặng đi một hồi lâu. Những cuốn sách tôi đặt trên ban thờ, dưới di ảnh hắn.
Thắp nén nhang thầm nói với hắn xin cầm theo mấy tập bản thảo, tìm cách in cho
hắn.
Đời người ta kể cũng lạ. Tự nhiên
được sinh ra, lớn lên, nếm đủ mọi thăng trầm, buồn, vui…. Rồi, thoắt cái biến
mất mãi mãi…
Thánh Thiên, 01-2008
Một thuở hoa đào
Truyện ngắn
Vào dịp tết Mậu Tý thuở ấy, thống
lĩnh Tướng công họ Lữ dẫn đạo quân hùng hậu lên trấn an vùng biên ải phương
Bắc. Dẹp lũ thổ phỉ, thổ ty phản quốc, lợi dụng giặc Bắc, giặc Nam lăm le xâm
lược, nổi loạn chống lại triều đình. Đến đoạn sông Hoa Đào, vượt qua sông, đạo
quân được lệnh hạ trại ăn tết dưới rừng đào. Độ ấy, tiết trời khắc nghiệt, hanh
khô giá lạnh, da mặt, chân tay nứt nẻ. Về đêm sương muối dày đặc đóng băng rét
buốt, bầm gan tím ruột. Ban ngày mưa dầm mưa dề suốt những ngày tết, kéo lê thê
sang cả tháng giêng hai làm dịu đi từng đợt gió bấc hanh khô rét buốt tê tái.
Mưa xuân đầu mùa tở mở như phấn như bông. Sức sống mới trỗi dậy trào dâng lớn
lên từng khắc sau đêm dài ngủ đông. Chạy dài hàng chục cây số bên tả ngạn dòng
sông, rừng hoa đào bừng tỉnh, hoa nở tưng bừng, mênh mang màu hồng rực như lửa.
Đó, đây ẩn hiện những cây hoa mận trắng muốt, tạo nên bức tranh sinh động, ấm
áp một vùng quê êm đềm. Ở hữu ngạn dòng sông lại mơn man màu xanh trải dài của
những bãi dâu uốn lượn theo dòng sông. Vượt qua đê là cánh đồng thẳng cánh cò
bay, lúa đang thì con gái. Mưa xuân, rét ngọt càng làm sục sôi không khí tết.
Chợ tết, hội xuân náo nhiệt, cuốn hút người dân làng bản dời bếp lửa ấm, ăn mặc
đẹp xuống chợ, vào hội vui chơi.
Từng tốp trai thanh gái lịch bản
gần, bản xa tấp nập đổ về. Cả ông già, bà cả và trẻ con, khuôn mặt ai cũng hớn
hở, rạng rỡ niềm vui.
Tướng công họ Lữ cho quân lính thay
phiên nhau xuống chợ, vào hội, hoà cùng không khí vui tết với bà con làng bản
cho đỡ nhớ nhà. Bản thân ông, cùng tuỳ tùng cải trang trai làng từ xa đến nhập
vào đám trai gái xem họ hát giao duyên, say sưa, mê mẩn cùng những câu hát.
Trước khi chia phe bên trai, bên gái họ cùng đồng thanh hát:
Đã lên ngựa là không sợ sấm.
Đã lên ngựa là không sợ gió
Đã đi là suốt đường vui
Đã hát là hát lời hay, ý đẹp.
Đôi ta không hát thì thôi
Đã hát là hát như cây nứa, cây vầu
thi nhau mọc
Như cây hoa mận, hoa đào quấn quýt
nhau suốt mùa xuân…
Rồi bên trai hát trước:
Em ơi,
Chiếc dây lưng này em thêu hình con
ốc
Sợi nhỏ, sợi to đều do tay em se
Chiếc áo này em thêu hình cây thông
Sợi to sợi nhỏ đều do tay em viền.
Nếu được mặc hoa sẽ nở trên ngực
anh!…
Chiếc khăn tay này em thêu hoa đào,
trái đào
Sợi nhỏ sợi to ngày chuốt nắng đêm
chuốt trăng em nhuộm
Nếu được ấp trong lòng hoa trái
thành tim anh!…
Bên gái đối đáp lại ngay:
Anh ơi,
Chim khuyên có gọi mùa, mùa mới về
Chim khuyên có gọi năm, năm mới tới
Tháng giêng là mình ra sấm mới
Con chim khuyên khôn – hãy đến hót ở
đỉnh đồi nhà em…
Bên trai lại say sưa hát giọng bổng,
giọng trầm:
Mặt trời đã nhô đầu ngọn núi
Mặt trời đã treo trên ngọn cây cao
đầu thôn
Ngày mới đã thức.
Bước chân anh chộn rộn tìm lối đến
bản em
Em ơi hãy về bản anh nhé
Bản anh ở bên kia ngọn núi
Nhà anh có mẹ hiền, có ngựa quý, có
khung lanh và bếp lửa chờ em.
Cứ thế, họ hát thâu đêm, suốt sáng.
Lời ca như có lửa, như men rượu. Tướng công cũng mê man cùng họ. Trong lòng
rừng rực rồi đê mê. Nỗi lòng như có cánh bay lượn, chờn vờn cùng lời ca. Những
đôi mắt lúng liếng. Những khoé miệng hoa đào, áo mớ ba mớ bảy, khăn mỏ quạ, tóc
đuôi gà, mặt hoa da phấn, những cô thôn nữ hoá thành những nàng tiên. Rồi Tướng
công cũng bắt được một nàng lẻ đôi, thơ thẩn bên gốc đào. Hình như nàng cũng đã
bị hút hồn bởi chàng trai khôi ngô tuấn tú, đã tự tách ra đứng đợi, chờ dịp gặp
gỡ. Quả cầu được ước thấy. Họ đã gặp nhau. Chàng trai nhẹ nhàng hỏi:
- Thưa cô hai hay cô ba… ở đâu ta về
trảy hội?
Cô gái e lệ nép bên chùm hoa đào.
Mắt sắc dao cau lúng la lúng liếng, má lúm đồng tiền làm chóng mặt ai. Nụ cười
tươi hoa. Nàng trả lời bằng lời ca cất lên trong vắt:
Em ở đấy,… cách xa chín ngọn núi
Em ở đây,…cách xa tầm chim bay
Anh có thương thì hãy làm loài chim
báo mùa hạ tới
Hãy cùng em đi qua mùa… loài chim
báo mùa thu tới – Mùa lúa chín…
Anh có yêu hãy đến đón em về
Đôi ta thành hai loài chim đẹp, hót
hay…
Rồi, cô cất tiếng cười khanh khách,
ý tứ liếc chàng trai. Vốn thông minh xuất chúng, lại mê những lời ca đẹp, tình
tứ, mời nhập hội hát một đêm mà chàng trai lạ đã học được lối hát và thuộc
nhiều lời ca hay. Chẳng phải tay vừa, chàng đối lại bằng một giọng ca trầm, ấm
áp:
Ta yêu được mình, ta quý như bóng
chiều ngả
Ta lấy được mình, ta yêu như bóng
chiều tàn
Yêu mình, ta lấy mây ủ ấm cho mình
Nhớ mình, ta lấy đá làm thang lên
đỉnh núi thăm mình.
Đêm sau, rồi đêm sau nữa, họ hẹn gặp
nhau tâm tình bằng những lời ca đẹp. Trong lòng họ đã xôn xao. Tình trong như
đã, mặt ngoài còn e. Bởi họ đã hiểu nhiều về nhau đâu. Sớm mai chàng trai phải
cùng đạo quân lên đường rồi. Trước buổi chia tay bịn rịn, lưu luyến, chàng hát:
Gió về thổi lá cây bên khe suối
Nếu ta là hạt sương
Ta xin tan trên bàn tay em.
Gió về thổi lá cây lật nghiêng ngả
bên suối
Nếu ta là hạt sương
Ta xin tan dưới bàn chân em.
Đêm qua, đêm tàn ngày mai sáng lối
Ta lê bước về nhà
Hồn như còn ngủ nơi vạt áo em…
Sau này, cô thôn nữ tựa gốc cây hoa
đào ấy mới biết chàng trai tuấn tú kia trong đạo quân lên phía Bắc dẹp loạn.
Chưa hẹn hò gì nhau, nhưng cô cảm thấy đã nặng nghĩa nặng tình chờ đợi chàng
trở về. Đã hai mùa hoa đào nở, cô đến gốc đào xưa thẫn thờ mà nào thấy bóng
chàng. Câu hát tình tứ như tỏ tình vẫn như cất lên ấm áp đâu đây. Rồi tao loạn,
giặc dã. Hồi đó giặc Chiêm Thành mang quân xâm lược nước ta, đi theo đường
thuỷ, ngầm lén lút tiến quân vào Lục Đầu Giang. Đi đến đâu, giặc tàn sát dã man
dân làng đến đấy…
Lúc này, đạo quân của Tướng công họ
Lữ đã dẹp xong loạn, triều đình điều gấp về dẹp giặc Chiêm Thành. Hành quân
thần tốc, đạo quân nhanh chóng có mặt nơi trận chiến. Với tài cầm quân, chỉ vài
ba trận Tướng công đã cùng đạo quân đánh tan tác giặc, cùng quân dân cả nước
nhanh chóng đuổi chúng ra khỏi bờ cõi, đem lại cuộc sống hoà bình, yên ấm cho
dân. Trở lại vùng rừng hoa đào tả ngạn dòng sông, Tướng công đau xót thấy cảnh
làng bản bị giặc tàn sát, có bản chẳng còn ai. Cả rừng đào bị đốt cháy, chặt
phá bằng địa. Tìm cảnh cũ, người xưa nào thấy đâu. Nàng cùng dân bản đứng lên
chống trả giặc quyết liệt đã bị chúng tàn sát. Hình ảnh cô thôn nữ khăn mỏ quạ,
tóc đuôi gà, áo mớ ba mớ bảy, mặt hoa da phấn, đôi mắt lúng liếng, má lúm đồng tiền,
nụ cười hoa đào, đặc biệt giọng hát trong vắt, lời ca có men làm chuyếnh choáng
lòng người, cứ ám ảnh Tướng công suốt từ thời trai trẻ cho đến khi về già.
Đất nước thanh bình đã lâu, tuổi
cao, sức yếu, Tướng công cáo quan về quê an hưởng tuổi già. Lòng vẫn canh cánh
một thuở hoa đào. Ông tìm về làng xưa giữa rừng đào bên tả ngạn dòng sông xin
được xây cất ngôi đình để tưởng niệm, thờ cúng những hương hồn bà con bị giặc
tàn sát, trong đó có cô gái tựa gốc cây đào, say sưa hát những lời có cánh. Mỗi
năm cứ đến độ hoa đào nở, ông lại khăn gói lên đình, hoài niệm về mùa hoa đào
thuở ấy. Trong mơ lại được gặp nàng, nghe nàng hát. Rồi ông xin về ở hẳn làm
người trông coi ngôi đình. Đêm đêm ông hát với nàng. Nàng vẫn hát hay, trẻ đẹp
như xưa:
- Anh ơi,
Chim khuyên có gọi mùa, mùa mới về
Chim khuyên có gọi năm, năm mới tới…
… Anh có yêu hãy đến đón em về…
- Em ơi,
Yêu mình, ta lấy mây ủ ấm cho mình
Nhớ mình, ta lấy đá làm thang lên
đỉnh núi thăm mình…
Nếu ta là hạt sương
Ta xin tan trên bàn tay em
Nếu ta là hạt sương
Ta xin tan dưới bàn chân em
Xin nguyện, hồn ta mãi ngủ nơi vạt
áo em!…
Và, đến một mùa hoa đào như thuở ấy,
ông quy tiên về trời. Vua ban tặng, phong cho ông: Nam Bình Giang sứ Đô thống tướng
quân. Dân bản làng thương nhớ công ơn ông, tôn vinh là thành hoàng. Nơi phần mộ
khắc ghi hai câu thơ như bản di chúc của Ngài:
Tâm ngã bình minh chí.
Xuân Mậu Tý - 1/2008.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét