Hoàng Quang Thuận cùng nhà sư bên cuốn thơ nặng trên một tạ
Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Hiện tượng “thơ thiền” của
Hoàng Quang Thuận
Hoa Tàn, Mưa Tạnh,
Non Yên Lặng...
Hiện tượng thiên tài thơ, siêu việt thơ, thần thánh thơ... của
GSTS Hoàng Quang Thuận - Viện trưởng Viện Công nghệ Viễn thông Việt Nam - qua
hai tập “Thi vân Yên Tử” và “Ngọa Vân Yên Tử” mà hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức
hội thảo với những bài tụng ca vi vút tận trời xanh, xem như “dòng
thơ Thiền non thiêng Yên Tử” và
người ta đã gởi đi dự giải Nobel văn học, người ta đã tặng cho đất Phật Yên Tử
cuốn sách độc bản với kích thước 125cm x 80cm x 16cm nặng 120 ký đạt kỷ lục
châu Á; lại nghe tin hành lang là người còn dự định cho khắc chạm “thơ Thiền này” khắp núi non Yên Tử nữa!
Hiện tượng ấy như là một cái gì cần phải “chau
mày suy nghĩ” đối với
nền văn học nước nhà, nhất là văn học Phật giáo. Người ta muốn quảng cáo như
thế nào, đạt được kỳ vọng gì là quyền của người ta, nhưng ca tụng thái quá hai
tập thơ ấy như là “thơ Thiền non thiêng Yên Tử” là một cái gì thiếu nghiêm túc, thiếu
cẩn trọng cần phải được báo động:
- Thơ của Hoàng Quang Thuận có phải là “thơ
thiền” hay không?
- Thơ “nhập đồng” hay là kiểu mượn bút viện cớ là của
tiền nhân có phải là tinh thần Phật giáo không?
- Làm thơ mà “đạo văn” của người khác - dù bạn bè đã gắng
gượng đính chính chỉ là “mượn văn” - cái tâm ấy có thể sáng tác ra “thơ
thiền” được chăng?
Hỏi, dường như đã có câu trả lời. Một người Phật tử bình thường
cũng cảm nhận, cũng ý thức được đấy là chuyện “không thể”. Thế nhưng, tại sao, thiên hạ chẳng
thấy đó là chuyện “không thể”, lại làm một trò đùa hơi quá đáng để “tụng
ca, tán thán ca” bằng
một bè hợp xướng, một giàn đồng ca ”tươi vui xôm trò” như thế?
Cái hiện tượng thơ Thiền ấy tạo nên một cao trào “rôm
rả” mà ta có
thể tóm lược như sau:
- Hai tập thơ đã được in và tái bản bốn lần bằng tiếng Việt và
cùng ba thứ chữ Việt-Pháp-Anh với số lượng in lên đến 25.000 bản. Và người
ta đã làm đầy đủ hồ sơ hai tập thơ và dịch ra tiếng Anh gửi tham dự giải Nobel
văn học.
- Có một vị giáo sư mê say ngồi dịch nó mặc dù tuổi cao sức yếu vì
không thể cưỡng lại “chất Thiền” ở trong đó.
- Có một ngài nguyên Tổng giám đốc đài nghe nhìn, đọc thơ của ông
Thuận đã cảm hứng thốt lên bằng một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt tuy không đúng
niêm luật, lại tán thơm: “Tôi tưởng theo
anh thăm Yên Tử/ Nào ngờ lạc bước chốn thi vân/ Hoàng Quang cửa Phật soi câu
chữ/ Thuận dòng rửa sạch chốn bụi trần”.
- Đến nay hiện đã có hàng chục tờ báo ở trung ương và địa phương,
từ báo Nhân Dân, Hà Nội mới, Sài Gòn Giải phóng đến các báo Hạ Long, Quảng
Ninh, Thể thao - Văn hóa... đều đã có bài đăng tải về “hiện
tượng thơ Hoàng Quang Thuận”. Thậm chí có người “cho
lên mây xanh” nhưng
dựa trên nền thực trạng bát nháo thơ Việt hôm nay: “Giữa thời buổi thơ in ra nhan nhản, chủ yếu xoay quanh đề tài tình yêu
hoặc co vào suy tưởng chiêm nghiệm cá nhân, đôi khi rối mù tắc tị… thì “Thi vân Yên Tử” và “Ngọa Vân Yên Tử” như một áng mây lành, thoát tục, trong trẻo đến lạ lùng dắt người đọc vào
chốn Bồng Lai, rũ bỏ bụi trần trở về với bản ngã thiện tâm trong mỗi con
người...”
- Tập thơ đã có tiếng vang thật là “quốc
tế”, có lẽ do không
tiếc công quảng cáo, tiếp thị, “ưu thế quan hệ”và cả cái gì đó khó hiểu nữa - đến đổi Tổng Thống Pháp
đã khen ngợi, Tổng Thống Mỹ gởi lời cảm ơn và hoàng cung Thụy Điển đánh giá là
cao siêu và sâu sắc!
- Trước sự động viên cổ vũ của “giàn đồng ca”, ông Thuận đã tự mình - hay ai đó xúi
giục - gửi hai tập thơ ấy đi tham dự giải Nobel văn học; và có người còn đẩy “giá
trị thơ thiền” ấy đi
quá xa, rằng là: “Được giải hay không chẳng quan trọng bằng việc hai tập thơ đã là sách gối đầu
giường của nhiều bạn đọc hôm nay và mai sau, đặc biệt đối với những ai yêu
thích ‘dòng thơ Thiền’ với những trải nghiệm tâm linh cực kỳ thú vị”.
Còn nữa, chúng ta còn có duyên may mắn ngàn năm một thuở được nghe
khúc hòa tấu vang vọng lên tận non thiêng Yên Tử, nó động đến, làm giật mình
những hồn thơ cổ xưa, cổ kính của sơ tổ Trúc Lâm, tam tổ Huyền Quang và cả
Nguyễn Trãi, Nguyễn Trung Ngạn nữa...
Để có thêm tư liệu dẫn chứng, tôi xin nhắc đến bài “Thi
vân Yên Tử - tác phẩm và dư luận” của
GD&TĐ Online đã đúc kết đại lược là: Sau hội thảo “Hoàng Quang Thuận với Non thiêng Yên Tử” do Tạp chí Nhà văn - Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức ngày 8/8/2012, có rất
đông người yêu thơ phản hồi bày tỏ tình cảm quan tâm, trân trọng những vần thơ
đẹp lạ, rất thanh khiết mà dung dị mang đậm chất Thiền.Đại diện cho Hội Nhà
văn, ông Hữu Thỉnh nói rằng: “Thơ anh - Hoàng Quang Thuận - là một bức tranh tôn giáo trầm mặc mà sống động, thanh khiết
mà run rẩy!”
Những ai quan tâm đến nội dung buổi hội thảo mà GD&TĐ đề
cập để biết cái “thanh khiết mà run rẩy”của Hữu Thỉnh
muốn nói là cái gì - thì có thể đọc bài của ông: “Một
hồn thơ sau những bức tranh tôn giáo”. Tiếp theo, những ai muốn nghe những “vần
thơ đẹp lạ, rất thanh khiết mà dung dị mang đậm chất Thiền” ấy ra sao thì cứ nhờ chú Google dẫn đường để xem thêm một số bài khác:
- Lạc đạo tùy duyên cùng Thi Vân Yên Tử (Đỗ
Ngọc Yên). Hoàng Quang Thuận với non thiêng Yên Tử (Hữu
Việt). Cảm hứng thiền trong thơ Hoàng Quang Thuận (Ngô
Hương Giang). Dấu tích vua Phật Trần Nhân Tông ở Yên Tử trong lòng
thi nhân (Đặng Hiến). Vẻ đẹp cõi Phật trong Thi
Vân Yên Tử của Hoàng Quang Thuận (Nguyễn Toàn Thắng). Cảm thức tâm linh
trong thơ Hoàng Quang Thuận (Dương Kỳ Anh). Thiền vị trong Thi vân
Yên Tử của Hoàng Quang Thuận (Trần Thị Thanh). Về Yên Tử đọc thơ Hoàng
Quang Thuận(Đăng Lan). Cảnh vật
trong cảm thức thiền tông (Phạm Quang Trung). Không gian “Thiền” trong Thi vân Yên Tử (TS.
Hà Ngọc Hòa). Yên Tử qua thơ Hoàng Quang Thuận (Thu
Phong). Chữ tâm trong Thi Vân Yên Tử (Mộc
Lan). GS. Hoàng Quang Thuận: "Tiền nhân mượn bút tôi viết thơ " (Dương
Tử Thành). Có một nhà thơ danh sơn Yên Tử (Trần
Nhuận Minh). Thi vân Yên Tử của Hoàng Quang Thuận - Một chân dung
thơ - Phật tính hiền truyền (Hoàng Trung Hiếu). Tình yêu đất nước và
chất thiền Thi Vân Yên Tử (Thế Trung). Thi vân Yên Tử của tác giả
Hoàng Quang Thuận như một hiện tượng văn học (PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn).
Tuy nhiên, có điều đáng mừng là không phải ai cũng chạy theo phong
trào ca tụng ấy, quả thật đã có những người đã tỏ vẻ hoài nghi thiên tài thơ
thiền ấy, họ đã biết đặt những vấn đề:
- Thi vân Yên Tử “nhập đồng” hay “đạo” thơ? (SGGP
Online). Trong
đó nhà văn Võ Thị Xuân Hòa: “Hội Nhà văn Việt Nam sẽ làm rõ nghi án ‘đạo’ thơ”. Còn nhà phê bình Nguyễn Hòa: “Liệu
nó có đúng là thơ không và có đúng với những gì mà ông Thuận nói là thơ của
tiền nhân không, vì theo đánh giá của tôi, đó chỉ là văn bản thơ hạng xoàng!”
- “Thi vân Yên Tử” của
Hoàng Quang Thuận có phải là thơ nhập đồng? của luật sư Nguyễn Minh Tâm.
Trong đó, người viết đã rất trung thực phân tích và chứng minh rõ, thơ ấy không
phải là thơ nhập đồng, cũng không phải tiền nhân mượn bút - mà chính Hoàng
Quang Thuận đã lấy ý từ quyển sách “Chùa Yên Tử, lịch sử - truyền thuyết, di tích và
danh thắng” của tác
giả Trần Trương để “biên soạn lại thành thơ”.
- “Hiện tượng thơ nhập đồng” hay
là trò sao chép, lừa đảo? của
Mai An đăng ở báo Dân Việt, trong đó tác giả nói trong
ba đêm mà sáng tác 141 (sic) bài thơ và dự giải Nobel phải chăng là “giấc mơ
quá cỡ”? Rồi Mai An
trích câu nói của nhà thơ Trần Trương, hội Nhà văn VN: “Đây
là một hành động lừa đảo...”
- Dấu hiệu đạo văn của “nhà thơ nhập đồng” - tác giả Nguyễn Việt Chiến đăng trong
tạp chí Văn học và Ngôn ngữ.
- “Hiện tượng thơ nhập đồng”: Sớm làm rõ “nghi án” đạo
văn; và “Ai tiếp tay cho nhà thơ nhập đồng Hoàng Quang Thuận
dự giải Nobel” - Lê
Tâm thực hiện. Trong đó tác giả bảo có nhiều người muốn biết ai viết giấy giới
thiệu? Và nổi bật ý kiến: “Dự giải Nobel là một điều khôi hài”.
- Và mới đây là bài “Cái lưỡi... đa nhân cách và những phát ngôn” của Kỳ Duyên đăng tại Báo Mới.com -
trong đó tác giả sau khi phê phán khá nặng nề ... và viết lơ lửng “Xấu
chàng, hổ... Tạp chí Nhà văn”, đã
nói là ông Thuận phải trả giá đắt cho sự nông nổi của mình chỉ vì hai chữ lợi
danh tai quái; ông muốn đạt tới “ngộ”nhưng có lẽ tục lụy còn quá nhiều,
tham, sân si còn quá lớn nên “ngộ nhận” chăng?
Có lẽ liệt kê như thế cũng tạm đầy đủ.
Đầu tiên, tôi xin góp ý một cách đúng đắn và khách quan rằng, cả
hai tập thơ của Hoàng Quang Thuận là loại thờ tả cảnh, tự sự, cổ tích, sử tích,
huyền thoại vào loại bình thường. Tôi nói là bình thường - chớ không dám nói
thẳng thừng như nhà phê bình Nguyễn Hòa gọi là “hạng
xoàng!” Đối với tôi,
nếu “được gọi là thơ” thì
thơ Quang Thuận chưa phải là “thơ hay” vì nó thiếu “chất
thơ”, tức là thiếu vắng ngôn ngữ nghệ thuật và hình tượng nghệ
thuật. “Chất thơ” thì nó không nằm nơi ý nghĩa bề mặt
câu chữ của văn bản mà nó phải ở ngoài hoặc ở phía sau bề mặt câu chữ của văn
bản. Cố gắng đọc vài chục bài thơ của ông, tôi đã thấy chán, vì nó“chẳng có thơ” và dĩ nhiên, đích thực là “chẳng
có Thiền”! Tôi thấy
đâu đó chỉ là sự lắp ghép ý tứ, câu chữ, lựa dáng, tìm vần... nhưng mà cũng
chưa chỉnh, chưa “giỏi” lắm! Và ý nghĩa của nó
chỉ có một, nó nằm“chết”, nằm “bất
động” nơi bề mặt câu
chữ của văn bản mà thôi. Ta hãy khảo sát một số bài:
1. “Cổ thụ vươn cao xòe tán rộng
Rừng già nóng lọt đốm hoa rơi
Dây leo chằng chịt vắt cành lá
Chìm rừng líu lót với hương trời”.
2. “Viên gạch Hoa Cúc đời nhà Trần
Phù điêu sư tử sứ hoa vân
Vẫn ba gốc đại ngày xưa ấy
Bao năm xa cách vẫn thấy gần”.
3.“ Từ bỏ ngôi vua để tu hành
Từ cái nhất thời, cái hữu danh.
Vĩnh hằng vô hạn, vua tìm đến
Yên Tử trường xuân hóa đất lành”.
4. “Vòng cung uốn lượn tựa mình rồng
Vươn mình thế núi hướng biển Đông
Ẩn sâu khúc lượn trong lòng đất
Đầu rồng ngoảnh lại hướng Thăng Long”.
5. “Dựng xây cung điện đế
triều nghi.
Định đế xưng vương lập thành trì.
Đại Hoàng cổ Việt Trương Yên phủ.
Hào sâu núi hiểm bất khả tri”
Cả năm bài tứ tuyệt, nếu là tứ tuyệt nghiêm túc thời trung đại thì
bài nào ở đây cũng thất niêm luật cả (những chữ gạch đáy, đổi trắc thành bằng, bằng thành
trắc mới đúng); và ý
nghĩa của nó chẳng khác gì thông tin của một văn bản điện tử, hiểu ngay, nắm
bắt được ngay! Đây là loại “văn xuôi có vần!” Rất tầm thường! Mới tập làm thơ cũng
làm được. Nếu ai đó nói là có tâm thì đúng vậy, nó chỉ có tâm! Nhưng ngay cái
tâm ấy cũng chưa nắm bắt căn bản tư tưởng Phật học khi nói “vĩnh
hằng và trường xuân” ở
nơi bài 3 - vì “vĩnh hằng”là cõi của nước Chúa, còn “trường
xuân” là cảnh giới
luyện tinh thành khí để đạt “trường xuân bất lão” của Đạo gia! Còn về thơ tứ tuyêt như
trên thì nhà phê bình Nguyên Hòa cười mỉm: “Dù tác giả làm nhiều bài thơ tứ tuyệt hoặc ghép hai
bài tứ tuyệt thành một bài thất ngôn bát cú cho có dáng dấp Đường luật thì ngay
cái việc cố gắng ép thơ vần cũng đã đưa lại ý tứ khôi hài...”
Đấy là chúng ta khảo sát về cái gọi là thơ thì thơ Quang Thuận chỉ
là “văn xuôi có vần!”, chưa phải là thơ thứ thiệt! Còn về cái
mà người ta gọi là “thơ Thiền” của Quang Thuận, thì hãy nghe nhà phê
bình Nguyên Hòa nhắc nhở: “Xin chớ nghĩ hễ trong bài thơ có hình ảnh chùa
chiền, non cao, bóng núi, cây đá, mây trời, trăng treo, tiếng hạc... là bài thơ
có chất Thiền! Xin hãy hiểu rành rẽ về Thiền và thơ Thiền rồi hãy viết, kẻo lại
rơi vào cảnh ngộ ‘vẽ rắn thêm chân’!” Nói vậy, rõ là ông Nguyên Hòa đã rất
thận trọng “về Thiền và thơ Thiền”. Thận trọng là đúng. Tuy nhiên, nếu là
tôi, là một tu sĩ có học Thiền, có tu Thiền và cả dạy Thiền, tôi sẽ mạo muội
xin phép viết lại mệnh đề cuối như sau:“Xin
hãy tu tập Thiền, chứng nghiệm Thiền, sống Thiền rồi hãy làm thơ Thiền, kẻo lại
rơi vào cảnh ngộ ‘đầu thượng trước đầu, tuyết thượng gia sương’! (1)” Vì
vậy, hai tập thơ của Quang Thuận viết về Yên Tử mà được mọi người gọi là thơ
Thiền thì quả là hơi nóng vội, có cái gì đó thiếu chân xác, cần phải đính chính
lại.
Tại sao tôi lại dám nói vậy? Vì thật sự là thơ Thiền thì phải được
cảm hứng từ trực giác tâm linh của những Thiền sư đạt ngộ, của những hành giả
đã từng miên mật công phu định tuệ (2) trên non cao, động thẳm, trong những
tu viện xa vắng, tịch liêu. Các vị ấy đã nhảy qua hố thẳm phạm trù của lý-trí-thức-tri-nhị-nguyên-sai-biệt, đã giải quyết trọn vẹn “tử
sinh đại sự”, đã cất
tiếng cười lạnh giá cả sao Ngưu, sao Đẩu, đã cởi bỏ tất thảy mọi xiềng xích
buộc ràng của bản ngã với những mặt nạ hư dối, đã trang bị cho mình con mắt thứ
ba của“tuệ nhãn” nhìn xuyên thủng hư vô bị che chắn dập
dờn bởi khói sương mê lầm, vọng huyễn. Cuộc đời các vị ấy là một chân dung mô
phạm khả kính. Họ có đời sống giới luật nghiêm túc, có đạo hạnh tôn quý, có tuệ
giác khinh linh siêu thoát. Họ sống thiền trong từng hơi thở, từng sát-na nên
mới có thẩm quyền về thiền, nói về thiền, mới có thể “thở
ra thơ thiền” được.
Còn tác giả của những tập thơ Yên Tử này là ai? Một Phật tử hay đơn thuần chỉ
là một người mộ Phật? Hoặc chỉ là một người kính yêu non thiêng Yên Tử? Là một
con người bình thường có gia đình vợ con? Một cư sĩ trí thức hay một vị quan
đang “đại ẩn” tại
triều trung? Và nếu gồm tất thảy những con người ấy, với những “hành
trạng” như thế thì
người ta chỉ có thể làm thơ tức cảnh, tức tình, về tự sự, về cổ tích, về danh
thắng hay về huyền thoại... nhưng thơ ấy không thể gọi là thơ thiền! Tôi nghe
biết tác giả là một GSTS, một viện trưởng, một nhà khoa học; tuy nhiên, cho dẫu
một trí thức uyên bác cũng không thể nào với tới thế giới tâm linh trực giác,
là lãnh địa ở ngoài mọi kiến thức và trí năng? Có thể nào trí thức bác học hiện
nay trên thế giới ai cũng có thể liễu giác, chứng nghiệm thiền, sống thiền
trong một vài sát-na tư duy đốn ngộ và có thể làm được thơ thiền cả thảy? Điều
này là bất khả. Điều này là “vẽ lông cho rùa”, “chắp sừng cho thỏ” (3).
Còn nữa. Còn một chuyện nữa. Như người ta nói, và chính tác giả
cũng có nói là mình làm trong ba đêm liền tập “Thi vân Yên Tử” gồm 143 bài trong trạng thái như “nhập
đồng’, do tiền nhân mượn bút nên khó lý giải được. Đầu tiên, xin
được đính chính, là cái kiểu “nhập đồng, mượn bút” kia không phải là tinh thần của nhà
Phật chánh tông, nó hơi “tà” rồi
đấy! Có người lại suy luận, có lẽ do nhập định sâu mới làm thế được. Xin thưa, “nhập
định sâu” (4) thật sự thì phải đóng hết cả sáu căn (mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý); trong
trạng thái ấy, hành giả đâu có thể khởi tư duy mà làm thơ được?! Hàng ngàn
người tu thiền định thứ thiệt họ biết rõ điều đó; nói chuyên môn một chút là
phải xuống “cận hành định” mới khởi “tầm
và tứ” tức là khởi ý
niệm và suy nghĩ được! Riêng chuyện nhập thần, mượn bút thì có thể có - nhưng “tiền
nhân” này là ai? Tiền
nhân này sao lại có đọc quyển sách “ Chùa Yên Tử, lịch sử, truyền thuyết, di tích và
danh thắng” của tác
giả Trần Trương? Cứ dựa theo sách của người ta, đổi văn xuôi thành văn vần để
biến ra cái gọi là thơ thiền? Tiền nhân này sao lại “mượn
văn” của tác giả đang
sống hiện nay một cách vô ngại thời gian như thế? Và nếu có thật chuyện đó thì
tiền nhân này không phải là Phật, là thần, là Trần Nhân Tông, là các vị thiền
sư, là các đại bút danh sĩ rồi! Tại sao? Vì Phật thần thì không có cái tâm
xiêng xẹo, cong vênh như thế! Và nếu là các tác gia thời trung đại thì “đại
bút” của các vị ấy đã
rơi xuống “tiểu bút” rồi, thi hương cũng không đỗ đâu! Còn
nếu là Trần Nhân Tông, Huyền Quang, các vị thiền sư giáng bút thì sao thơ quý
ngài lại “xuống cấp” đến vậy, “tầm
thường thơ” đến vậy,
chẳng có tuệ, có thiền, có trao truyền mật chỉ tâm ấn gì cả?! Tiền nhân này là
ai vậy? (5)Chúng ta phải tìm cho
ra cái khuôn mặt của ông ta - để giải bớt cái oan khuất cho tất thảy thiền sư,
danh sĩ thời Lý, Trần mà văn học sử thường xem như đấy là thời đại đỉnh cao của
văn học, là cái “nôi” hàm
tàng mọi giá trị mỹ học, thiền học cũng như tinh túy văn hóa bản sắc của cha
ông. Tiền nhân nhập bút ấy là ai mà Nguyễn Hòa đã than: Nếu
thực sự “tiền nhân mượn bút” của Hoàng Quang Thuận để “viết thơ” thì xem ra thơ
của “tiền nhân” đã sa sút đến mức thê thảm... Với các bài thơ chưa đúng niêm
luật ... mà được gọi là “nghệ thuật Đường thi trác việt” thì đúng là hết thuốc
chữa!
Quả đúng là hết thuốc chữa!
Vì “trăm năm duyên kiếp” như thế này mà cũng là thiền sao:
“- Trăm năm duyên kiếp còn lưu lại
Lối cũ đường xưa ngập cỏ cây”.
Và đây cũng gọi là thơ, là thiền sao:
“- Ba tên kẻ cướp nhảy chặn đường
Vua Trần cho bạc lẫn phần cơm
Nhẹ nhàng thuyết giáo trừ tâm độc
Cả ba quỳ lạy hứa hoàn lương!”
Và đây nữa:
“- Hoa Lư kinh thành của Đế vương
Mây bay phủ núi luỵ biên cương
Hoàng Long dậy sóng ngàn năm ngủ
Long Mã truy phong thượng đạo đường”.
Bài nào cũng thất niêm luật, không những không phải thơ, không
phải thơ thiền mà còn không hiểu tác giá đưa thông tin “bí
mật” gì ở nơi chỗ “lụy
biên cương” và cái “thượng
đạo đường”?
Vậy là quá đủ.
Xin chư vị thức giả thẩm định cái gọi là “tiền
nhân nhập thần mượn bút” ấy
cho!
Tôi không tu Thiền theo thiền phái Trúc Lâm, không phải là đệ tử,
thân hữu, cũng không quen biết các ngài, các Sư, Ni ở trong tông môn đó. Tôi
thuộc Theravāda, chỉ là một tu sĩ yêu thơ, có nghiên cứu thơ văn của Trúc Lâm tam
tổ và các danh sĩ làm thơ có ảnh hưởng thiền thời Lý, Trần. Thơ, thơ thiền, thơ
có tư tưởng thiền và thơ có liên hệ đến non thiêng Yên Tử của các vị ấy, vào
thời trung đại ấy... tôi nghẹn chữ, không biết nóí sao. Tôi chỉ muốn ví von -
dù biết ví von nào cũng khập khễnh - là nó như là hạt tuyết trắng trinh tuyền
trên non cao. Nó là đóa hoa tinh khôi, diệu vợi u hương trên đầu núi. Mà bút
khí, bút lực, bút trí, bút tâm của thế gian là bút của chợ triền, ở dưới này,
thường không vói tới! Nó khác, nó rất khác, nó khác xa so với tất cả thơ mạo
nhận là thơ thiền hiện nay. Tảng đá tịnh định, trầm mặc trong vườn thiền hôm
kia cũng toát mồ hôi. Lau cỏ quê mùa dân dã, an nhiên sáng nay bên hiên chùa
cũng run lẩy bẩy. Hiện tượng phẩm bình hơi quá bút về thơ thiền của Hoàng Quang
Thuận làm cho “đá cỏ trong vườn thiền” cũng phải lên tiếng đính chính một vài
chỗ cần thiết. Tuy nhiên, thật may mắn thay cho Phật giáo chúng ta, và cả cho
những ai yêu non thiêng Yên Tử cùng cốt cách“cam
lộ lưu phương (6)” của
Hương Vân đầu-đà - là các nhà học giả nghiêm túc, các nhà nghiên cứu có đạo đức
tri thức đã đồng loạt phản bác, phê phán nghiêm khắc, đã nhìn ra “chân
tướng”, đã chỉ ra cái “bản
lai diện mục” của
cái trò chơi hơi “quá đà” kia rồi! Chỉ một chút xíu “quá
đà” thôi, chớ không
nên nói khá nặng lời như ai đó đã xem như là một hiện tượng vĩ cuồng!
Để kết luận, tôi xin trích bài tứ tuyệt thứ hai trong “Sơn phòng mạn hứng” có 2 câu đầu đối, hai vận, luật bằng
nghiêm túc của thiền sư thi sĩ Trần Nhân Tông:
“ Thị phi niệm trục triêu hoa lạc
Danh lợi, tâm tùy dạ vũ hàn
Hoa tận, vũ tình, sơn tịch tịch
Nhất thanh đề điểu, hựu xuân tàn”.
Tạm dịch (không lấy hết ý trong cặp đối):
“- Phải, trái niệm rơi hoa rạng sớm
Lợi danh lòng lạnh mưa thâm đêm
Hoa tàn, mưa tạnh, non yên lặng
Còn tiễn xuân tàn, một tiếng chim!”
Hy vọng rằng, những hiện tượng phù du như vậy rồi sẽ qua đi.
Chuyện phải, chuyện trái nó rơi theo hoa buổi sớm rơi. Cái tâm về lợi danh nó
lạnh ngắt giống như trận mưa lạnh ngắt đêm rồi! Và ngay cái rơi, cái lạnh ấy
cũng không còn nữa, nó rụng, nó tạnh hết rồi, chỉ còn lại non yên lặng mà thôi.
Và ở nơi cái “thực tại non yên lặng” ấy, một tiếng chim vừa hót lên...Cũng
vậy, cái gì không phải thơ, không phải thiền thì nó sẽ rơi, sẽ rụng đi - nhưng
sự an tĩnh và thanh khiết của hồn thơ, hồn thiền non thiêng Yên Tử sẽ còn mãi
với thời gian. Mong vậy thay!
Am Mây Tía 20/8/2012
Chú thích:
(1) Trên cái đầu, chồng thêm cái đầu, trên tuyết lại phủ thêm
sương - tức là ý niệm chồng thêm ý niệm, che lấp cái thực!
(2) Định (Samādhi), Tuệ (Vipassanā).
( 3) Thuật ngữ Thiền: “ Thố giác” (sừng thỏ), “mao quy”
(lông rùa). Hình ảnh này nói
lên ý nghĩa, là người ta đã dùng cái “không
thực có” để găm cắm
lên “cái thực” - tức là lấy ý niệm, khái niệm (chỉ tồn tại trong tu duy lý tính) để vẽ, để chắp lên pháp như thực tánh,
bản nguyên (sabhāva dhamma -
paramattha dhamma).
4) Tối thiểu phải sơ thiền trong bốn tầng (jhāna) thiền.
(5) Theo nhà Phật, một người tu Phật có chánh kiến, không
bao giờ tin việc nhập thần, giáng bút ấy là của thánh thần tiên Phật; nếu có,
chúng chỉ là ma quỷ (ngạ quỷ,
dạ-xoa, a-tu-la) mà thôi.
Tin ba cái chuyện mê mê hoặc hoặc ấy là tà kiến. Vậy, nếu có, thì “tiền nhân mượn bút” ấy chỉ là ma quỷ.
(6) Móc ngọt chảy mùi thơm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét