Để có Tác Phẩm
Lớn Việt Nam
Nên Vứt Thơ Đi.
Nguyễn Hoàng Đức
Gần một thế kỷ nay, Trung Quốc dường như tuyệt đối vứt thơ đi, đến mức dường như thơ không thể mọc tăm sủi bọt trên văn đàn. Nhưng họ đã được cái gì? Được hai giải Nobel văn chương với Cao Hành Kiện và Mạc Ngôn. Tại sao, người Tầu lại có thể đoạt tuyệt với thơ như vậy? Rõ ràng vì họ nhận ra, thơ vụn vài câu không thể là kiến trúc văn chương, và lao động lao động nghệ thuật. Thơ chỉ là sinh hoạt chữ nghĩa ngẫu hứng bồng bột được chăng hay chớ thôi.
Hội thả thơ cho Trời đọc diễn ra hàng năm ở Văn Miếu- Quốc Tử Giám - Hà Nội
Thơ chính thức là gì? Đó là sự ngâm nga vần vèo truyền khẩu giành cho những người mù chữ cũng như không có sách để đọc. Trong một xã hội ít học thì thơ còn đóng vai trò khoe mình đã thoát bệnh mù chữ. Tại Trung Quốc, người ta khoe mình có chữ ở khắp nơi. Cung vua cũng ghi chi chít chữ ở sau ngai để khoe mình nhiều chữ. Ngoài chợ thì kẻ sĩ hơi tí là nẩy thơ vài câu, không thì làm câu đối hai câu cũng được. Thậm chí luôn luôn sẵn sàng vén tay áo thụng viết một chữ Nhẫn, chữ Tâm để khoe mình biết chữ. Tại sao người ta muốn vậy? Vì người ta muốn xác định mình có chữ có thể làm quan như “học ưu nhi tắc sĩ”. Tại Trung Quốc còn có cả một phong trào thể dục, sáng ra dùng gậy viết chữ xuống mặt đường, đó cũng là cách mặc cảm muốn khoe mình tuy bình dân nhưng đã có chữ. Các bậc cha mẹ hiện đại của Trung Quốc còn có một câu phổ biến “không vào đại học thì đời vứt đi!”
T hơ ngắn vụn vặt vì mới đầu nó chỉ là tức cảnh sinh tình, tùy tiện, đi đâu khoe chữ đấy. Tuy vậy người Tầu rất khinh thơ. Họ cho rằng làm người quân tử thì trước hết phải thông thạo Nho – Y –Lý –Số. Nho là Nho giáo với bậc thầy Khổng Tử. Y là y học với sự thành thạo về nguyên lý cơ thể kết hợp với cơ địa của trời đất. Lý thuộc về nguyên lý vũ trụ càn khôn với bộ Kinh Dịch là chủ đạo. Còn số là phải biết áp dụng các môn Tử vi, Tử bình, phong thổ, kỳ môn độn toán, tướng mạo.
Sau đó mới đến: Cầm-Kỳ-Thi-Họa. Mấy thứ này đều là sinh hoạt, bao gồm: Cầm là chơi đàn, kỳ là chơi cờ, sau mới đến Thi là chơi thơ, rồi đến họa tức vẽ vời. Bốn môn này không nói về bậc quân tử mà có rất nhiều gái thanh lâu mới tuổi đôi mươi đã thông thạo làu làu để còn ứng tác với kẻ sĩ.
Người Hy Lạp thì còn khinh bỉ thơ ra mặt. Triết gia Platon chính thức nói “Hãy mời các nhà thơ đi khỏi quốc gia để nước ta xứng đáng là của những người thông thái”. Còn trong đời sống, nghe kể, người ta xếp các nhà thơ cùng với thợ thủ công ở ngoài thành để những thói xấu của nhà thơ như la cà, ham vui, xạo, háo danh tí tởn không làm hỏng đạo đức của các công dân. Mỗi buổi tối, đàn ông Hy lạp được lĩnh vé xem của quốc gia, trọng đại đi đến nhà hát bi kịch để chìm đắm trong những vở kịch hoành tráng có nhân vật và tình tiết. Ở nơi trọng đại như vậy không bao giờ có chỗ cho thơ lẻ và vụn, mà chỉ có những vần thơ được đọc theo mạch chảy của trường thiên kịch.
Người ViệtNam cũng rất coi thường thơ chỉ
trong hai từ “Thơ – Thẩn”. Nghĩa đó là dạng lẩn thẩn dở khôn dở dại. Trong bài
viết rât sâu sắc và phong phú mới đây trên blog Trần Mỹ Giống, tác giả Lê Tự
trong bài “Thơ… SOS” có tả một cảnh bi hài thế này: trong một cuộc liên hoan ở
Thủy điện Sông Đà, có vài chục người Việt lên đua nhau đọc thơ khiến cho các
chuyên gia Nga mắt tròn mắt dẹt không hiểu tại sao Việt Nam lại có đông nhà thơ
như vậy?! Trời ơi nước Nga là một cường quốc văn học trên thế giới với hàng
trăm thi hào và văn hào, vậy mà không thể có nhiều người vui vầy làm thơ như
Việt Nam. Điều này đáng mừng hay đáng lo? Chúng ta thấy hiển nhiên sỏi bao giờ
cũng nhiều hơn núi. Nhưng cái đáng lo ở đây là, trí tuệ mấy anh tranh tre nứa
lá của ta thấp quá, không biết trời cao đất dầy là gì, lúc nào cũng đòi tung
tăng đọc thơ, mà lại đọc trong tinh thần ích kỷ, và nhiều phần dốt nát. Người
đời vẫn nói “Im lặng là vàng”, khi gặp những người cao hơn thì ta phải biết
lắng nghe, đằng này lúc nào cũng đặt cái tôi của mình lên trước, không cần tiếp
thu ai cả, chỉ cần được khoe mẽ tí thơ. Mà thơ nào có hay hớm gì đâu.
Qua nhiều năm quan sát kỹ nền thơ Việt, tôi thấy các nhà thơ chẳng mấy khen ai, nghĩa là họ rất đố kỵ. Chẳng biết nghe ai, chỉ cần mình được đọc thơ, rồi vào Hội, rồi leo ghế, rồi ẵm giải. Không phải chỉ có tôi thấy thế, mà ngay nhà văn Nguyễn Huy Thiệp từ lâu đã nói: đó là đám vô học dốt nát, “đám giặc già thơ phú lăng nhăng”.
Nhìn kỹ hơn, tôi thấy, thơ là một đầm lầy bầy nhầy ẩn nấp những ký sinh trùng thơ hãm tài, nhân cách thấp kém. Tôi xin phân tích cụ thể:
1. Hiểu biết thấp: Xưa nay, cả thế giới nói “Đức hạnh là hiểu biết”, hoặc như người Tầu nói “Nhân bất học bất tri lý”, muốn có đức hạnh người ta phải biết cái gì đúng để làm, cái gì sai để tránh. Đằng này trình độ của các nhà thơ nói chung chỉ là sinh hoạt khoe mẽ mình vừa thoát nạn mù chữ (trong thực tế, sau bình dân học vụ, các tiểu nông Việt đã ào ào làm thơ), vì thế trình độ nhân cách của họ rất thấp, chủ yếu là thơ hiếu hỉ, gặp đâu nói đấy.
2. A dua, ăn theo nói leo: Thơ là ăn theo trăm phần trăm. Thứ nhất Cung đã vượt quá Cầu, người nghe thơ thì ít, người đọc thơ thì nhiều. Cụ thể, HNV muốn ra trang thơ thì phải in kèm độn vào trang báo. Ngay cả cái tên Hội Nhà Văn cũng là thương hiệu ăn theo cho các nhà thơ. Rồi rất nhiều nhà thơ muốn xí xộ mình là nhà văn cũng là cách ăn theo. Theo triết học, người ăn theo không có chủ quan tính, không phải chịu trách nhiệm về mình. Một người như thế thì làm sao đáng tin vào nhân cách hay đạo đức được.
3. Đố kỵ, ích kỷ, cấu kết bè nhóm, đánh chặn hiền tài: Sự đố kỵ của các nhà thơ nhìn đâu cũng thấy. Tôi xin đưa ra một minh chứng, ủy viên ban giám khảo kia đưa tập thơ đòi dự giải quốc gia, một ủy viên khác nêu lên, tôi không đồng tình vì như thế là phạm qui, nhưng tất cả các ủy viên khác đều phớt lờ, điều đó chứng tỏ người ta ngang nhiên bè phái đến thế nào! Còn sờ sờ kia cuộc thi thơ của 13 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long có đến 40% đạo văn và phạm qui, có chứng minh sự bỉ ổi ở mức quán quân chưa?
4. Lưu manh càn quấy: Việc mấy nhà thơ kia văng cứt và đếch vào thơ liên tục, không chỉ phản ánh thẩm xú thơ mà còn muốn nói “bố” giang hồ đây, thơ “bố” còn sẵn sàng ném bom bẩn và đếch thì “bố” ngán ai. Thử xem mấy tay giữ con dấu không ăn chia, sẽ nếm cái gì? Và chỉ cần một mệnh lệnh nhỏ, lập tức có một phi đội phê bình gia hợp tác xã lao vào tung hô thơ cứt lên mây xanh, thử hỏi đó có phải là bằng chứng của sự a dua bỉ ổi không?
Thôi, nói về cái kém, cái dở của thơ Việt thì không hết được. Nhưng tôi chắc chắn cái cách nhiều người làm thơ và lạm dụng thơ hiện nay chỉ làm cho văn hóa nước nhà dậm chân thụt lùi. Một điều không cãi được, muốn có nền văn hóa lớn chúng ta phải có tác phẩm lớn. Ai biện hộ và cãi bỏ điều này, chắc chắn là một người vừa nhìn đã thấy bé nhỏ, cho dù đó là người làm thơ Haiku hay đi nữa. Một cái tăm đẹp không bao giờ là một máy bay đẹp cả. Và đa số những người làm thơ, vui thơ, chơi thơ ở Việt Nam nên nghĩ, cho tới bao giờ mình chưa viết được tác phẩm thơ lớn có nhân vật thì mình chỉ là Sinh Hoạt thơ chứ chưa bao giờ là Lao động nghệ thuật thơ cả.
Tất cả mọi lao động ở đời, kể cả lao động nghệ thuật, nó phải cống hiến. Còn mới ngả ngớn, trà dư tửu hậu, đầu thừa đuôi thẹo thời gian làm mấy bài thơ tùy tiện rồi ngâm nga đòi vòi vĩnh những giá trị lớn của nghệ thuật, đó chỉ là sự ăn may dựa trên bất công tem phiếu thôi. Người ta có được gía trị ngang với những gì mình cống hiến. Ta mới làm thơ trong vòng nóng ấm chè, trở mình vài cái trong đêm, hay hít phải mấy bụm sương thu lành lạnh… tất cả những thứ đó không bao giờ là lâu đài nghệ thuật cả. Những chiếc lá cho dù có tụ bạ cấu kết với nhau cũng chỉ là đống lá thôi. Còn một đại ngàn dựng lên, nó phải xuất hiện theo một nguyên lý cắm mốc từ trong lòng đất. Kiến thức phải sâu, lý tưởng phải ngước nhìn các tầng trời, khi đó đại ngàn mới xuất hiện. Còn loanh quanh nhìn ra vườn, vớt mấy con ốc ngồi nhắm rượu nút lá chuối với mấy sợi rau vườn của mẹ, thì chỉ ra mấy bài thơ trên chiếu thôi.
Vì thế để có tác phẩm lớn, tôi đề xuất nên mạnh dạn vứt thơ đi. Vì ở đó có ít tinh hoa quá mà chủ yếu là chổ ẩn nấp của đám ít học hãm tài còi cọc nhân cách. Còn nếu ai là một phần nghìn tinh hoa đích thực thơ, tôi xin có lời tạ lỗi!
Nguyễn Hoàng Đức
Gần một thế kỷ nay, Trung Quốc dường như tuyệt đối vứt thơ đi, đến mức dường như thơ không thể mọc tăm sủi bọt trên văn đàn. Nhưng họ đã được cái gì? Được hai giải Nobel văn chương với Cao Hành Kiện và Mạc Ngôn. Tại sao, người Tầu lại có thể đoạt tuyệt với thơ như vậy? Rõ ràng vì họ nhận ra, thơ vụn vài câu không thể là kiến trúc văn chương, và lao động lao động nghệ thuật. Thơ chỉ là sinh hoạt chữ nghĩa ngẫu hứng bồng bột được chăng hay chớ thôi.
Hội thả thơ cho Trời đọc diễn ra hàng năm ở Văn Miếu- Quốc Tử Giám - Hà Nội
Thơ chính thức là gì? Đó là sự ngâm nga vần vèo truyền khẩu giành cho những người mù chữ cũng như không có sách để đọc. Trong một xã hội ít học thì thơ còn đóng vai trò khoe mình đã thoát bệnh mù chữ. Tại Trung Quốc, người ta khoe mình có chữ ở khắp nơi. Cung vua cũng ghi chi chít chữ ở sau ngai để khoe mình nhiều chữ. Ngoài chợ thì kẻ sĩ hơi tí là nẩy thơ vài câu, không thì làm câu đối hai câu cũng được. Thậm chí luôn luôn sẵn sàng vén tay áo thụng viết một chữ Nhẫn, chữ Tâm để khoe mình biết chữ. Tại sao người ta muốn vậy? Vì người ta muốn xác định mình có chữ có thể làm quan như “học ưu nhi tắc sĩ”. Tại Trung Quốc còn có cả một phong trào thể dục, sáng ra dùng gậy viết chữ xuống mặt đường, đó cũng là cách mặc cảm muốn khoe mình tuy bình dân nhưng đã có chữ. Các bậc cha mẹ hiện đại của Trung Quốc còn có một câu phổ biến “không vào đại học thì đời vứt đi!”
T hơ ngắn vụn vặt vì mới đầu nó chỉ là tức cảnh sinh tình, tùy tiện, đi đâu khoe chữ đấy. Tuy vậy người Tầu rất khinh thơ. Họ cho rằng làm người quân tử thì trước hết phải thông thạo Nho – Y –Lý –Số. Nho là Nho giáo với bậc thầy Khổng Tử. Y là y học với sự thành thạo về nguyên lý cơ thể kết hợp với cơ địa của trời đất. Lý thuộc về nguyên lý vũ trụ càn khôn với bộ Kinh Dịch là chủ đạo. Còn số là phải biết áp dụng các môn Tử vi, Tử bình, phong thổ, kỳ môn độn toán, tướng mạo.
Sau đó mới đến: Cầm-Kỳ-Thi-Họa. Mấy thứ này đều là sinh hoạt, bao gồm: Cầm là chơi đàn, kỳ là chơi cờ, sau mới đến Thi là chơi thơ, rồi đến họa tức vẽ vời. Bốn môn này không nói về bậc quân tử mà có rất nhiều gái thanh lâu mới tuổi đôi mươi đã thông thạo làu làu để còn ứng tác với kẻ sĩ.
Người Hy Lạp thì còn khinh bỉ thơ ra mặt. Triết gia Platon chính thức nói “Hãy mời các nhà thơ đi khỏi quốc gia để nước ta xứng đáng là của những người thông thái”. Còn trong đời sống, nghe kể, người ta xếp các nhà thơ cùng với thợ thủ công ở ngoài thành để những thói xấu của nhà thơ như la cà, ham vui, xạo, háo danh tí tởn không làm hỏng đạo đức của các công dân. Mỗi buổi tối, đàn ông Hy lạp được lĩnh vé xem của quốc gia, trọng đại đi đến nhà hát bi kịch để chìm đắm trong những vở kịch hoành tráng có nhân vật và tình tiết. Ở nơi trọng đại như vậy không bao giờ có chỗ cho thơ lẻ và vụn, mà chỉ có những vần thơ được đọc theo mạch chảy của trường thiên kịch.
Người Việt
Qua nhiều năm quan sát kỹ nền thơ Việt, tôi thấy các nhà thơ chẳng mấy khen ai, nghĩa là họ rất đố kỵ. Chẳng biết nghe ai, chỉ cần mình được đọc thơ, rồi vào Hội, rồi leo ghế, rồi ẵm giải. Không phải chỉ có tôi thấy thế, mà ngay nhà văn Nguyễn Huy Thiệp từ lâu đã nói: đó là đám vô học dốt nát, “đám giặc già thơ phú lăng nhăng”.
Nhìn kỹ hơn, tôi thấy, thơ là một đầm lầy bầy nhầy ẩn nấp những ký sinh trùng thơ hãm tài, nhân cách thấp kém. Tôi xin phân tích cụ thể:
1. Hiểu biết thấp: Xưa nay, cả thế giới nói “Đức hạnh là hiểu biết”, hoặc như người Tầu nói “Nhân bất học bất tri lý”, muốn có đức hạnh người ta phải biết cái gì đúng để làm, cái gì sai để tránh. Đằng này trình độ của các nhà thơ nói chung chỉ là sinh hoạt khoe mẽ mình vừa thoát nạn mù chữ (trong thực tế, sau bình dân học vụ, các tiểu nông Việt đã ào ào làm thơ), vì thế trình độ nhân cách của họ rất thấp, chủ yếu là thơ hiếu hỉ, gặp đâu nói đấy.
2. A dua, ăn theo nói leo: Thơ là ăn theo trăm phần trăm. Thứ nhất Cung đã vượt quá Cầu, người nghe thơ thì ít, người đọc thơ thì nhiều. Cụ thể, HNV muốn ra trang thơ thì phải in kèm độn vào trang báo. Ngay cả cái tên Hội Nhà Văn cũng là thương hiệu ăn theo cho các nhà thơ. Rồi rất nhiều nhà thơ muốn xí xộ mình là nhà văn cũng là cách ăn theo. Theo triết học, người ăn theo không có chủ quan tính, không phải chịu trách nhiệm về mình. Một người như thế thì làm sao đáng tin vào nhân cách hay đạo đức được.
3. Đố kỵ, ích kỷ, cấu kết bè nhóm, đánh chặn hiền tài: Sự đố kỵ của các nhà thơ nhìn đâu cũng thấy. Tôi xin đưa ra một minh chứng, ủy viên ban giám khảo kia đưa tập thơ đòi dự giải quốc gia, một ủy viên khác nêu lên, tôi không đồng tình vì như thế là phạm qui, nhưng tất cả các ủy viên khác đều phớt lờ, điều đó chứng tỏ người ta ngang nhiên bè phái đến thế nào! Còn sờ sờ kia cuộc thi thơ của 13 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long có đến 40% đạo văn và phạm qui, có chứng minh sự bỉ ổi ở mức quán quân chưa?
4. Lưu manh càn quấy: Việc mấy nhà thơ kia văng cứt và đếch vào thơ liên tục, không chỉ phản ánh thẩm xú thơ mà còn muốn nói “bố” giang hồ đây, thơ “bố” còn sẵn sàng ném bom bẩn và đếch thì “bố” ngán ai. Thử xem mấy tay giữ con dấu không ăn chia, sẽ nếm cái gì? Và chỉ cần một mệnh lệnh nhỏ, lập tức có một phi đội phê bình gia hợp tác xã lao vào tung hô thơ cứt lên mây xanh, thử hỏi đó có phải là bằng chứng của sự a dua bỉ ổi không?
Thôi, nói về cái kém, cái dở của thơ Việt thì không hết được. Nhưng tôi chắc chắn cái cách nhiều người làm thơ và lạm dụng thơ hiện nay chỉ làm cho văn hóa nước nhà dậm chân thụt lùi. Một điều không cãi được, muốn có nền văn hóa lớn chúng ta phải có tác phẩm lớn. Ai biện hộ và cãi bỏ điều này, chắc chắn là một người vừa nhìn đã thấy bé nhỏ, cho dù đó là người làm thơ Haiku hay đi nữa. Một cái tăm đẹp không bao giờ là một máy bay đẹp cả. Và đa số những người làm thơ, vui thơ, chơi thơ ở Việt Nam nên nghĩ, cho tới bao giờ mình chưa viết được tác phẩm thơ lớn có nhân vật thì mình chỉ là Sinh Hoạt thơ chứ chưa bao giờ là Lao động nghệ thuật thơ cả.
Tất cả mọi lao động ở đời, kể cả lao động nghệ thuật, nó phải cống hiến. Còn mới ngả ngớn, trà dư tửu hậu, đầu thừa đuôi thẹo thời gian làm mấy bài thơ tùy tiện rồi ngâm nga đòi vòi vĩnh những giá trị lớn của nghệ thuật, đó chỉ là sự ăn may dựa trên bất công tem phiếu thôi. Người ta có được gía trị ngang với những gì mình cống hiến. Ta mới làm thơ trong vòng nóng ấm chè, trở mình vài cái trong đêm, hay hít phải mấy bụm sương thu lành lạnh… tất cả những thứ đó không bao giờ là lâu đài nghệ thuật cả. Những chiếc lá cho dù có tụ bạ cấu kết với nhau cũng chỉ là đống lá thôi. Còn một đại ngàn dựng lên, nó phải xuất hiện theo một nguyên lý cắm mốc từ trong lòng đất. Kiến thức phải sâu, lý tưởng phải ngước nhìn các tầng trời, khi đó đại ngàn mới xuất hiện. Còn loanh quanh nhìn ra vườn, vớt mấy con ốc ngồi nhắm rượu nút lá chuối với mấy sợi rau vườn của mẹ, thì chỉ ra mấy bài thơ trên chiếu thôi.
Vì thế để có tác phẩm lớn, tôi đề xuất nên mạnh dạn vứt thơ đi. Vì ở đó có ít tinh hoa quá mà chủ yếu là chổ ẩn nấp của đám ít học hãm tài còi cọc nhân cách. Còn nếu ai là một phần nghìn tinh hoa đích thực thơ, tôi xin có lời tạ lỗi!
NHĐ 13/07/2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét